Lịch sử phường Mai Hùng

 
 ĐẢNG ỦY - HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN - ỦY BAN NHÂN DÂN - ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC XÃ MAI HÙNG
 
4/2013
 
Sơ thảo: LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ MAI HÙNG
 
NHÀ XUẤT BẢN NGHỆ AN - 2013
 
CHỈ ĐẠO NỘI DUNG:
 
Đồng chí: Nguyễn Xuân Bốn, Bí thư Đảng ủy - CT HĐND
        Đồng chí: Lê Hữu Trung, PBT Trực Đảng
                  Đồng chí: Đậu Viết Hiên, PBT- CT UBND xã
        Đồng chí: Nguyễn Văn Tuấn, UVTV- CT MTTQ xã
        Đồng chí: Văn Đức Lựu, UVTV- PCT UBND
        Đồng chí: Hồ Thị Tuyết, ĐUV- PCT UBND
 
 BAN SƯU TẦM TƯ LIỆU
 
                    Đồng chí: Nguyễn Đình Nhích, nguyên Chủ tịch Hội CCB         
Đồng chí: Ngô Văn Tuyền, nguyên Bí thư Đảng ủy
   Đồng chí: Ngô Văn Bàng, nguyên Chủ tịch Hội CCB
 
 

CHỦ  BIÊN
Quách Hữu Đăng

Lời nói đầu
 
    Mai Hùng, ở phía bắc huyện Quỳnh Lưu, cách huyện lỵ 12 km. Nơi đây có núi cao, sông rộng tạo ra phong cảnh "Sơn thuỷ - hữu tình", nằm trên trục đường giao thông Bắc - Nam, huyết mạch giao thông của cả nước, là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá - an ninh - quốc phòng, trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
   Mai Hùng có lịch sử lâu đời, trải qua hàng ngàn năm, nơi đây đã có con người sinh sống, họ đã khai sơn phá thạch, quai đê, lấn biển, ngọt hoá đồng ruộng xây dựng xóm làng, góp phần cùng cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
  Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân các làng, xã Mai Hùng một lòng đi theo Đảng, sớm giành được chính quyền trong cách mạng tháng Tám năm 1945, có nhiều đóng góp cho các cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc: chống thực dân Pháp,  đế quốc Mỹ xâm lược và các thế lực thù địch.
  Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Mai Hùng vững bước đi lên, tiến tới công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, giữ được nét đẹp truyền thống văn hoá quê hương, đồng thời xây dựng được nét đẹp văn hoá văn minh, hiện đại.
  Lịch sử đảng bộ, nhân dân xã Mai Hùng vẻ vang, hào hùng cần được lưu giữ, bồi dưỡng, giáo dục cho các thế hệ hiểu biết, từ đó nâng cao niềm tự hào và thấy rõ trách nhiệm với quê hương, đất nước..
  Thể theo yêu cầu nguyện vọng của đảng bộ và nhân dân, trước đây chúng ta đã tiến hành sưu tầm, biên soạn cuốn: "Mai Hùng truyền thống và lịch sử" (năm 1997), nhưng chưa đúng tầm với mảnh đất: "Địa linh, nhân kiệt". Qua đóng góp, cung cấp thêm tư liệu của các bậc cao niên, các đồng chí nguyên là bí thư, chủ tịch qua các thời kỳ và bước đầu tiến hành các cuộc hội thảo của các vùng, cũng như mở nhiều cuộc toạ đàm, góp ý, lấy ý kiến từ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Đáp ứng nguyện vọng đó, Đảng uỷ ra Nghị quyết về: "Tiếp tục, sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn lịch sử địa phương". Đến nay, cuốn "Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Mai Hùng" được hoàn thành.
        Nhân dịp kỷ niệm 123 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và các ngày lễ lớn của dân tộc, chúng tôi cho ra mắt quý, bạn đọc cuốn “Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Mai Hùng" . Cuốn sách gồm 5 chương.
    Chương I: Khái quát về miền quê Mai Hùng
    1. Vị trí địa lý.
    2. Các làng, họ cổ xưa của Mai Hùng
    Chương II: Truyền thống đấu tranh của nhân dân Mai Hùng trước và sau khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
    I. Trước khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
    II. Phong trào cách mạng của nhân dân các làng, xã Mai Hùng từ ngày có Đảng lãnh đạo đến Cách mạng tháng Tám 1945
    Chương III: Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ, nhân dân các làng đóng góp vào sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi (1945-1954)
    I. Những việc làm sau khi giành chính quyền
    II. Xây dựng hậu phương, chi viện cho các chiến trường, hoàn thành nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
    Chương IV: Đảng bộ và nhân dân xã Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ cứu nước 1954-1975
    I. Ổn định tình hình sau chiến tranh, phát triển kinh tế- xã hội, thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
    II. Đảng bộ và nhân dân xã Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần cùng cả nước đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1964-1968)
    III. Đảng bộ và nhân dân xã Mai Hùng khôi phục kinh tế, chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ, góp phần cùng cả nước giải phòng miền Nam thống nhất Tổ quốc (1969-1975)
    Chương V: Đảng bộ và nhân dân xã Mai Hùng, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc đổi mới đất nước (1975-2010)
    1.10 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quê hương của Đảng bộ và nhân dân Mai Hùng 1975 - 1986.
    2. Đảng bộ và nhân dân xã Mai Hùng trong sự nghiệp đổi mới, tiến tới xây dựng xã hội vì mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh" (1986-2010).
  Lịch sử chỉ có một, nhưng làm nên lịch sử là tất cả các thế hệ nối tiếp nhau và viết sử cũng là công việc của nhiều người đóng góp tư liệu, toạ đàm, bổ sung để cuốn sử hoàn chỉnh. Cuốn sử hoàn thành là kết quả tập hợp trí tuệ của nhiều người là sự đóng góp của các bậc cao niên, của cán bộ các ban, ngành, đoàn thể và các cá nhân, nhân dân xã Mai Hùng.
        Mặc dầu có nhiều nỗ lực, cố gắng sưu tầm tư liệu, biên soạn song do nguồn tư liệu không còn bao nhiêu nên sẽ không trách được những hạn chế thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được nhận sự quan tâm đóng góp ý kiến của quý, bạn đọc để lần sau tái bản được đầy đủ hơn.
        Thay mặt Ban chỉ đạo biên soạn, chúng tôi xin chân thành cảm ơn:
        Ban Thường vụ, Ban Tuyên giáo Huyện uỷ Quỳnh Lưu, đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Mai Hùng đã phối hợp cùng chúng tôi cung cấp thông tin tư liệu trong suốt quá trình biên soạn, xuất bản cuốn sách. Cảm ơn Nhà xuất bản Nghệ An đã nhiệt tình giúp đỡ, biên tập cuốn "Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Mai Hùng".
                                                                                                 
                                                                            Mai Hùng, tháng 5  năm 2013
                                                                     T/M BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ
                                                                                                       Bí thư
 
                                                                           Nguyễn Xuân Bốn         
 
 CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ MIỀN QUÊ MAI HÙNG
 
           1. Vị trí địa lý:
Các địa danh: sông Hoàng Mai, sông Mơ, Sứ Sơn, rú Sui, Đội Vấn, Bãi Vông, Động Kiêu, giếng Mía, đồng Vức, đồng Mò, 99 cồn đồi, đền Kim Lung, đền Ông Phổng, đền Ngọc Huy, đền cửa Truông tạo lập lên: làng Quang (Yên Phú), kẻ Đáy (Ngọc Huy), Kẻ Trường (Kim Lung), Cung - Nhồi (Yên Lộc - Yên Trạch), những tên đất, tên làng biết bao thân thương, như một dòng chảy liên tục của lịch sử, từ thế hệ này sang các thế hệ khác. Qua bao lần đổi thay tên gọi. Xã Văn Hiến, Văn Phương, Quỳnh Phương, Quỳnh Kim, Thọ Vinh, Quỳnh Mai, Quỳnh Hợp và hiện tại là xã Mai Hùng.
Mai Hùng ở phía nam cầu Hoàng Mai (đông và tây quốc lộ 1A); phía bắc giáp xã Quỳnh Vinh và thị trấn Hoàng Mai; phía đông giáp xã Quỳnh Dị, Quỳnh Phương, Quỳnh Liên xa xưa có một thời gian dài cùng chung lưng đấu cật với nhau làm nên những sự tích hào hùng; phía tây giáp xã Quỳnh Trang và xã Quỳnh Tân; phía nam giáp xã Quỳnh Xuân.
Diện tích tự nhiên: 1.221 ha, trong đó diện tích canh tác 456 ha
Dân số: 8.926 người, 1.924 hộ.
    Đảng bộ có 322 đảng viên, trong đó có 180 đồng chí có từ 30 năm tuổi Đảng trở lên, sinh hoạt ở 22 chi bộ, trong đó có 18 chi bộ nông thôn, 3 chi bộ trường học, 1 chi bộ trạm xá.
Đoàn viên thanh niên có 2119 đoàn viên, thanh niên, sinh hoạt ở 21 chi đoàn, trong đó 3 chi đoàn trường học.
Hội Liên hiệp phụ nữ có 1446 hội viên, sinh hoạt ở 18 chi hội
Hội Cựu chiến binh có 391 hội viên, trong đó có 7 người tham gia kháng chiến chống Pháp, 191 người tham gia chống Mỹ, sinh hoạt trong 18 chi hội.
Hội nông dân có 1093 hội viên, sinh hoạt 18 Chi hội
Hộị người cao tuổi 749 hội viên sinh hoạt 18 Chi hội.
        Khí hậu thời tiết:
        Nằm ở phía bắc trung - trung bộ, Mai Hùng có toạ độ khoảng 105042/ kinh độ đông, 19,20 vĩ độ bắc, thuộc khu vực nhiệt đới, nên chịu ảnh hưởng của 3 luồng gió.
         Gió mùa đông bắc tràn về mang theo giá lạnh, rét buốt và mưa phùn vào khoảng tháng 10 đến tháng 3 (âm lịch năm sau); gió Tây Nam, luồn qua dãy Trường Sơn, mang gió nắng, oi bức, khó chịu thổi vào miền Trung, nhân dân thường gọi là gió Lào từ tháng 4 đến tháng 7 (âm lịch); gió nồm (đông nam):  mát mẻ từ biển Đông thổi vào trong những ngày nắng hè oi bức.
Nhưng nhìn chung khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt: nắng nóng từ tháng 5 đến tháng 9, mùa lạnh giá từ tháng 10 (rét buốt vào tháng 12,  đến tháng 3 âm lịch  năm sau).
Mùa nắng nóng: Nhiệt độ bình quân 300C, có ngày lên tới 410C. Từ tháng 5 đến tháng 8 thường có giông tố, bão, thỉnh thoảng có mưa đá. Trong những ngày giông lốc, mưa làm cho nhà cửa, hoa màu bị tàn phá.
Nhìn chung khí hậu của Mai Hùng vẫn khắc nghiệt như những địa phương khác trong huyện. Mặc dầu gió mùa đông bắc được che chắn bởi dãy núi Xước, gió lào Tây - Nam có dãy núi Tùng Lĩnh bao che và phía trước là biển đông, đón nhận được gió nồm, mỗi khi gió lào oi bức, nắng nóng đã làm ảnh hưởng cho sản xuất, thời vụ, vật nuôi, cây trồng. Muốn phòng được thiên tai phải lường trước, vượt qua để hạn chế được thiệt hại do thiên nhiên tạo ra. Những kinh nghiệm xưa kia của các cụ cao niên để lại: Qua đêm giao thừa vào ngày mồng một tết (âm lịch) trời sáng thì trỉa đậu trắng, báo hiệu một năm mưa thuận gió hoà. Trời âm u, đen tối tỉa đậu đen, báo hiệu một năm đầy khó khăn thường xẩy ra bão to, gió lớn, hoặc trong năm các tổ ong bò Vẽ đóng cao trên các thân cây, năm đó thường có mưa to, lũ lớn; nếu đóng thấp, năm đó sẽ có bão to, gió lớn, nắng nhiều…Các cụ xưa đã có câu dự báo về thời tiết: "Ráng (cầu vồng) đóng cửa lạch (lạch Cờn), con chạch chết khô, con rô chết cóng", nghĩa là đầu năm nắng hạn, cuối năm rét đậm. Năm ráng đóng Cửa Thần (cửa Truông khu vực Tiền Phong) sang Mò Hóc (xóm 18) , người dân Kim Lumg nhìn thấy thường có câu: “Ráng phía tây đầy đồng nước” sẽ là năm mưa thuận gió hoà, mùa màng được, con người và động vật ít bệnh tật.
               Các động, thực vật:
Xưa trên các dãy Thung Bằng, Thung Nhọn, núi Lăng, núi Sứ, thủng Quan huyện, Động Kiêu, Động Thờ, núi Sui..., là những rừng cây rậm rạp: "Chân voi, móng hổ dẫm đạp chồng chéo lẫn nhau". Rừng đại thụ bạt ngàn xanh tốt, nơi đó có các loài động vật quý hiếm: Hổ, Báo, Sơn Dương, Cầy Hương, lợn rừng, cáo, hoảng, cùng các loài chim: Phượng Đất, Vàng Anh, cu Gáy, cu xanh, gà rừng, đa đa, chim cuốc, ngày nay do sự tàn phá của con người đã tác động đến môi trường nên các động vật đó còn tồn tại nhưng rất ít, nó đã trở về nơi: ''Rừng xanh, xa tít".
Thực vật: lúc rừng còn đại ngàn, rậm rạp có các cây cổ thụ như: Lim, sến, táu, vàng tâm, đinh hương, lát hoa, gụ... Đặc biệt nơi đây còn có cây thông lấy nhựa có từ thế kỷ XVIII, cùng thời với rừng thông ở núi Tùng Lĩnh (Quỳnh Xuân và Quỳnh Văn). Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, quanh những khu rừng đã kể trên chỉ còn lại: Cau, chè, chuối, mít, dầu sơn thay thế cho những cây cổ thụ quý hiếm. Động Kiêu có mỏ Nến đất, vết tích còn lại của rừng thông cổ đại xưa. Dọc theo các chân núi: Thung Bằng, rú Lăng, rú Sui, rú Sứ, Thủng Quan Huyện, nổi lên các nại chè mang tên của các chủ nhân khai phá rừng.
Một thời các núi trên, nổi tiếng về cây thông lấy nhựa. Thông ở những vùng này cành lá xum suê, thân thịt không xắn, cho nhiều nhựa. Đầu thế kỷ XX, ông Đậu Khuyến (Hội Hoàng), người thị trấn Hoàng Mai thầu cả vùng, có lò chế xuất nhựa thông thành (tinh dầu vµ cô lô phan) dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp và được tiêu thụ trên thị trường thế giới. Các rừng thông bị tàn phá trong những năm thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Ngày nay, trong thời kỳ đổi mới, với cơ chế giao đất giao rừng các địa điểm trước đây có rừng thông đang được phục hồi cho giá trị kinh tế cao, góp phần vào việc bảo vệ môi trường sinh thái.
Các cây trồng xưa: cau, nhãn, na, mít, dứa, chè, muỗn, thị, vội, phục vụ cho nhu cầu con người và trao đổi hàng hoá. Xưa Giáp Yên (Yên Lộc - Yên Trạch nay là thôn 12 và thôn 13) trồng nhiều cau, trầu, chè, chuối bán ở chợ Chiền Quỳnh Vinh. Làng Ngọc Để (Ngọc Huy nay là thôn 1), trồng nhiều rau muống, rau muống ở vùng này ăn ngon dòn và ngọt được nhiều nơi ưa chuộng, đặc biệt là được tiêu thụ mạnh ở làng Phương Cần (Quỳnh Phương) và các nơi khác.
               Ngày nay vườn rừng, vườn đồi nhờ tác dụng của khoa học kỹ thuật và nhận thức của con người, những cây cổ truyền trước đây đã có nhiều thay đổi phá bỏ, thay thế là những mô hình vườn - ao - chuồng (VAC) hoặc vườn - ao - chuồng - rừng (VACR), được nhiều người chú ý quan tâm.
               Sông, suối:
Sông Hoàng Mai:
Sông Hoàng Mai bắt nguồn từ rừng núi phía Tây Nam tỉnh Thanh Hoá, đổ ra huyện Nghĩa Đàn, chảy qua huyện Quỳnh Lưu từ Bến Nghè, Quỳnh Thắng, Tân Thắng;  Sông có lưu vực rộng khoảng 308km2, chiều dài khoảng 40 km, đoạn chảy qua huyện dài khoảng 24km.
Từ ngàn xưa đến nay, sông Mai đã gắn bó với quê hương, sông đi vào tuổi thơ cho đến lúc về cõi vĩnh hằng của mỗi con người. Trên sông con người đánh cá, chăng lưới, vận tải, tắm giặt. Sông là nơi hội tụ đời sống vật chất tinh thần cho cả một vùng dân cư rộng lớn, là nơi diễn ra các ngày hội lớn của dân tộc, quê hương: Hội đua thuyền, Lễ đền Vưu, đền ông Phổng (thờ Thượng Ngàn công chúa xưa ở phía bắc cầu Hoàng Mai của làng Yên Phú), đền Cờn với cảnh đẹp của sông Mai, nhà văn Đại thi hào Nguyễn Du đã có bài thơ vịnh:
          Vịnh cầu Hoàng Mai:
          Hoàng Mai kiều vãn điếu
          Hoàng Mai kiều thượng lịch dương hồng
          Hoàng Mai kiều hạ thuỷ lưu thông
          Nguyên khí phù trầm thương hải ngoại
          Tình lám thôn thổ loạn lưu trung
          Đoàn xa ngư chẩm cổ kính nguyệt
          Trường địch đồng suy cổ kính phong
          Đại địa văn chương tuỳ sự kiến
          Quan tâm hà sự thái thông thông.
Dịch thơ:
"Trên cầu Hoàng Mai bóng xế hồng
Dưới cầu Hoàng Mai nước xuôi đông
Chìm nổi bầu trời ngoài mặt biển
Chập chờn khí núi giữa lòng sông
Thuyền chăng chài gối chiều tối ngắm
Đường gió đông ngàn điệu sáo trong
Cảnh đẹp đất này chẳng đâu có
Vội vã chi thêm bận tấm lòng"
Ngày nay, ở thượng nguồn có hồ chứa nước Vực Mấu (khởi công năm 1978, hoàn thành năm 1987, nâng cấp năm 2009 hoàn thành năm 2010) cung cấp cho cả vùng phía Bắc và một phần phía Tây Nam của huyện, và các khu công nghiệp đóng trên địa bàn. Hồ Vực Mấu đã tạo ra môi trường sinh thái, cảnh quan, ngăn lũ lụt cho các xã ở vùng Hoàng Mai. Một nhánh sông Hoàng Mai chảy qua thôn 1 (Ngọc Huy) đến xã Tiến Thuỷ (thường gọi tắt là sông Mai, sông Mơ hay kênh nhà Lê (Có tên gọi đó do sông được đào thời nhà Lê), đổ ra cửa biển lạch Cờn và Lạch Quèn tương lai là những bến cảng lớn, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá quê hương, đất nước.
Thạc sỹ, nhạc sĩ, thiếu tướng An Thuyên, Hiệu trưởng trường đại học Văn hoá nghệ thuật quân đội, đã có bài hát "Tình mẹ quê hương" nói về dòng sông Mai, bài hát có đoạn:
            "Về tắm nước sông Mai                      
            Gặp đây tuổi thơ tôi                            
            Lang thang con còng gió                              
            Thương nhau hạt lúa vẫn căng tròn             
            Con nước vơi đầy vơi                          
     Ngọn gió trùng khơi       
            Bão tố đi qua cuộc đời   
            Thương nhau hạt lúa vẫn căng tròn   
            Tình mẹ chất đầy lời thơ tôi
            Tình mẹ suối ngàn Quỳnh Lưu ơi"
 
            Kênh Nhà Lê:
Cuối thế kỷ thứ X, vua Lê Hoàn cho đào kênh Bà Hoà (kênh nhà Lê) nối  Thanh Hoá với huyện Quỳnh Lưu, đoạn đi qua địa giới (xã Mai Hùng) giữa hai làng Ngọc Huy - Kim Lung nối với sông Mơ, mở đường thông thương trong nội địa với các huyện phía Nam của tỉnh Nghệ An.  Đây là đường thuỷ nội địa mang lợi thế về kinh tế, quân sự. Tiếp theo, các thời Lý - Trần vẫn củng cố xây dựng vùng Hoan - Diễn thành hậu phương chiến lược quan trọng. Triều Lý cử Lý Nhật Quang,  con của vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn), có tài kinh bang tế thế trông coi vùng Hoan - Diễn. Thời Trần, cử Tĩnh quốc Đại vương Trần Quốc Khang trấn giữ Châu Diễn, lo việc mở mang kinh tế và củng cố vị thế phòng thủ. Thời Lê Thánh Tông, cử ông Quách Hữu Nghiêm võ tướng sau khi dẹp giặc Chiêm thành được vua cử trấn giữ cảng Xước, cửa Cờn, lạch Quèn, cửa Bạng (Tĩnh Gia Thanh Hoá), tiếp tục cho nạo vét kênh nhà Lê.
Khe Trịch:
Bắt nguồn từ phía Bắc của vùng Tam Lễ (Quỳnh Châu), chạy theo hướng Đông - Bắc rồi đổ ra hướng đông nối với sông Hoàng Mai. Đây là con khe lớn nhất chảy qua xã Mai Hùng, trước đây chưa có đê II ngăn mặn nước thuỷ triều lên xuống làm diện tích một vùng lớn bị nhiễm mặn khó sản xuất. Từ những năm 1960 đến nay đê ngăn mặn và đê viền bao quanh khe Trịch thường xuyên được tu bổ, bồi trúc, nên đã tạo ra những cánh đồng trước đây chỉ làm được một vụ bấp bênh nay tăng lên 2-3 vụ cho thu nhập cao. Trên các con khe ngày nay đã thành hồ, đập chứa nước phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Ngoài khe Trịch còn có nhiều suối nhỏ: Khe Bàu, khởi nguồn từ động Kiêu, xưa là địa giới của hai làng Yên Phú - Kim Lung. Khe Nước Trắng bắt nguồn từ phía tây dãy núi Tùng Lĩnh đổ ra hướng bắc qua (xóm 18  Bồ Hóc), nhập vào khe Trịch và hàng chục con suối nhỏ được tạo ra bởi các ngọn núi: Thung Bằng, Thung Nhọn, rú Lăng, rú Sứ, động Kiêu, nước đổ xuống các xóm, thôn, đồng ruộng gây nhiều khó khăn cho giao thông liên thôn, liên hương và các cánh đồng gần núi bị bào mòn, xoá lấp.
Núi đồi, cồn chãi:
Các đồi núi nhấp nhô bao bọc lấy các thôn xóm của xã. Đứng trên các đỉnh núi cao, ta có thể ngắm nhìn biển, trời, sông nước, cồn đồi nhấp nhô tạo ra hình dáng, cờ, lọng, trống, bút,  nghiên, gươm, đao tế khí thủa xưa, phong cảnh của quê hương thật là hữu tình .
Núi Sứ:
Thế kỷ thứ X (980), núi Sứ thuộc làng Yên Phú xã Vũ Duyệt, nay thuộc khu vực HTX Tiền Phong.
Núi cao 152 mét, nằm ở phía tây - bắc, ngọn núi nhìn về hướng đông nam. Những người dân đánh cá xa xưa, lúc chưa có la bàn định hướng đã có câu: "Đi Mê về Sứ". Trên đỉnh núi có một cột cờ báo hiệu cho người đi biển. Từ đỉnh núi đi xuôi về hướng nam có hòn núi Ông, núi Mụ được thiên nhiên dựng lên bằng những hòn đá lèn cứng rắn, có bài thơ:
Tính danh đồng thị nhị nghi sinh                 
Nhất nặc nhân duyên vạn cổ tình       
Kỷ độ giang hà thành biến cải
Càn khôn kham khoát thất gia bình    
Hồng trang la đái hà thiên lý
Bích dạo bình lộ ngũ canh
Nhật nguyệt chiếu lâm hình ảnh mật
Phong ba bất nội thử kiên trung
Tạm dịch nghĩa:
Tên tuổi vốn trời đất sinh ra
Một lời hứa nhân duyên là nghĩa muôn đời
Mặt trời, mặt trăng chiếu soi hình ảnh mật thiết
Trời, đất rộng lớn, nhà cửa bình yên
Ráng mây ngàn dặm như giải ngân hà là trang sức màu đỏ
Sương rơi năm canh như bình phong biếc che
Đã mấy lần sông nước thay đổi
Sóng gói không làm nhơ bẩn tấm kiên trung ấy
Tạm dịch thơ:
Tên họ cùng là tạo hoá sinh              
Muôn năm gắn bó mối chung tình      
Bao phen sông biển từng thay đổi
Gần gũi ngàn đêm tựa bóng hình
Ngàn dặm ráng phơi dài lụa đỏ
Năm canh mây phủ tấm bình xanh
Thênh thang trời đất là nhà cửa
Sóng gió không hề bợn tấc trinh
Từ hòn "Đá Ông, đá Mụ", đi về phía tây có thủng Quan huyện, núi Côn Viên, Yên Ngựa, chân Lăng... Tạo nên cảnh đẹp tự nhiên, thơ mộng. Giữa am núi Sứ có mộ tổ họ Văn được đặt từ thời Bắc thuộc cách ngày nay hơn 1.000 năm, mộ hướng về phía đông nam, chuyện kể rằng:
"Xa xưa có hai ông, bà người họ Văn chèo đò trên dòng sông Mai (trên đường thiên lý, từ xóm Cung-Nhồi). Một đêm trời mưa to gió lớn có một người khách qua đò xin được nghỉ lại. Sáng hôm sau người khách nọ vội vã lên đường quên mang theo đồ dùng cá nhân, ông bà cất cẩn thận. Sau đó người khách quay lại, ông bà đã giao toàn bộ tài sản lại cho khách. Khách biếu lại vàng, bạc nhưng ông, bà không lấy. Cảm động trước tấm lòng tốt của ông bà, người khách xem phong cảnh, địa lý và nói: khi ông, bà lâm chung thì đặt huyệt mộ ở nơi này (giữa am núi), muôn đời con cháu sẽ thành đạt.
Bài cảo đặt mộ
"Sứ Sơn, trảo nha                                Tiền án, hổ ba
Thế chính, hình tà                                Hoàng xã, nhất động
Long sinh, phương ấn                         Bạch nhãn, đầu hà
Hổ hiệu, minh sa                                 Huý trường, kỳ cổ
Phong yên, hạc tất                               La liệt mâu qua
Gải nhãn, ngư hà                                Vũ đổng, nhung lự
Hậu sơn, hoành ước                            Nam nhân, hoàng nha ".
Nghĩa là (tạm dịch):
Ở Quận Cửu Chân (Nghệ An), không ở đâu có địa thế linh thiêng bằng núi Sứ này, mặt trời chỉ đi qua lăng mộ (không chiếu thẳng vào đầu), bên hữu có ấn vuông, phía tả chiếu sáng lóng lánh như ngọc sa (hình thể như ngai ghế bành, ngồi trên mình con Hạc (cánh đồng Vức) có lưng tựa vào núi, mỏ chầu vào làng Chiền (Quỳnh Trang), chân co, chân duỗi vào hướng Rộc Dài (nay là xóm 12), trên mình Hạc là tiền án, trung án (nơi rú chùa làng Yên Lễ, nay là xóm 20), ngoại án Cồn Chỉnh (chợ Quỳnh Dị hiện nay), rú Sui (xóm 12) là lá cờ, chiêng trống. Các binh khí từ rú Thần, đến dãy Thung Bằng, Thung Nhọn. Thật là "Tả hữu đều sáng long lanh như ngọc sa, tròn trĩnh như mắt cua, tròng cá. Địa thế lăng mộ có mạch chảy ra như chim Nhạn trắng bay vượt trên sóng biển. Bởi vậy, cả Quận Cửu Châu (Nghệ An) "không ở đâu bằng huyệt mộ này".
Bao bọc quanh Sứ Sơn là các địa danh: Bãi Vông, Mục Bài, đội Vấn (có nghè cây Tràu), cồn Mít những tên thân thương, nay đã hình thành lên các thôn 14 - 15 - 16 - 17.
Núi Sui:
Núi cao 70 mét (so với mực nước biển), cạnh sát sông Hoàng Mai, che chở cho xóm Cung-Nhồi (vào Yên Lộc - ra Yên Trạch), nơi đây có những cây thông nhựa khá sớm (tương đương với dãy thông ở núi Tùng Lĩnh, Quỳnh Xuân - Quỳnh Văn), thông giống tốt, cho nhựa nhiều. Rừng thông bị tàn phá vào những năm 1980.  Phía nam núi Sui có miếu thờ thần hoàng, có 4 cây thông cổ thụ được trồng phía trước, trương truyền 4 cây thông này do các cụ tổ họ Quách trồng, có đồn San (một chặng nghỉ chân), của đường thiên lý Bắc - Nam (ngày nay là quốc lộ 1A) đi qua.
D·y nói Tr­êng häc vµ ró Thê
Động nằm ở phía Tây, có độ cao 100 mét (so với mực nước biển). Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, động Thờ là một rừng thông bạt ngàn cho nhiều nhựa, nằm trong hệ thống thông của núi Tùng Lĩnh. Xưa Động Thờ có đền thờ Bạch Y đại vương, ghi lại dấu ấn của cuộc khởi nghĩa Lê Lợi. Bởi vậy khi làng Quang (Yªn Phó) tế thần ở đền ông Phổng đều phải rước kiệu đến động Thờ để ôn lại kỷ niệm thời Lê Lợi đánh thắng giặc Minh ở thế kỷ XV. Dưới chân động có giếng Mỗi vµ giÕng Cöa N­¬ng, có mạch nước không bao giờ cạn, những năm đại hạn cả vùng Hoàng Mai đổ về đây để lấy nước ăn. Ngày nay, khu vực này trở thành nơi cung cấp nước cho các địa phương trong và ngoài huyện.
Động Kiêu (rú Trường):
Núi nằm ở phía nam của làng Kim Lung, cao 104 mét (so với mực nước biển). động Kiêu là cái nôi sinh sống của làng Kim Lung cổ. Nơi đây có nhiều di tích quan hệ tới nguồn gốc hơn 1000 năm sinh sống của làng Kim Lung. Trên đỉnh núi có cột đèn báo hiệu cho người đi biển trước đây. Ở giữa lưng chừng núi có dấu vết của chân ông Đùng gánh đất tạo dựng quê hương, có hòn đá dựng, vũng sao sa, mỏ nến đất, gần đây dân làng khai phá quanh động Kiêu, nhặt được các công cụ thời kỳ đồ đá: Lưỡi cuốc đá, rìu đá. Dưới chân núi có đền Thị thờ thần Cao Sơn, Cao Các. Phía đông có núi Hàn, núi thấp hơn động Kiêu, nhưng thế núi hùng vĩ. Phong cảnh đẹp thơ mộng nên nho sĩ Hồ Sĩ Hiếu thời Thiệu Trị (1841) có bài thơ: Trấn núi đông nam vững đá bàn         
Xưa nay tục gọi núi động Hàn
Đúc nên phong thổ nhiều tay lớn
Trổ dấu thần linh lắm kẻ ngoan
Yên Ngựa đứng trông còn hiện mặt
Mày nga chờ đó dám bền gan
Một giải sông Mai quanh chảy lại
Người tiên đón rước vẫy chèo lan.
Thơ nói về động Hiệp:
Động Kiêu khởi mạch canh
Quày ngang qua động hiệp
Hổ thuỷ kéo quanh co
Long sa dăng khép nạp
Miếu thờ quan chỉ huy
Ruộng đặt làm thế nghiệp.
Cầu, cống và các trục đường:
Cầu Hoàng Mai, cầu Hói Bãi: Nằm trên trục đường quốc lộ 1A, 2 cầu cách nhau khoảng 200m là điểm giao lưu hội tụ (ngã tư), đường từ Toàn Thắng (Yên Phú) đi lên vùng Tiền Phong, vực Mấu (Quỳnh Trang). Thời Pháp cầu Hói Bãi xây dựng hẹp không đủ cho lượng nước chảy qua, mùa mưa lũ nước tràn qua cầu, gây ách tắc giao thông, làm ngập úng các cánh đồng thượng nguồn.
Cầu Trịch (cầu đường sắt) ở phía tây, ngày nay là ranh giới phân chia giữa xã Mai Hùng với Quỳnh Tân và Quỳnh Trang.
Cầu Ngọc Huy: Xưa kia dùng đò ngang, năm1946, cầu được làm bằng những thanh ray và tà vẹt, nối làng Kim Lung sang Ngọc Huy và Quỳnh Phương, với vùng bãi ngang. Năm 1949 (giặc Pháp đổ bộ vào Quỳnh Lưu), cầu bị đánh sập sau đó được làm lại nhưng không được bền, năm 1991 bằng nguồn vốn huy động của địa phương, cầu được làm kiên cố dài 50m có hệ thống dẫn nước từ nguồn nước Vực Mấu về thôn 1. Cầu hoàn thành đã tạo điều kiện thuận lợi thông thương giữa các vùng, thoả mãn ước mơ của người dân vùng Kim -  Ngọc có nước cho sinh hoạt và phục vụ sản xuất làm thay bộ mặt kinh - tế xã hội của cư dân.
Cầu qua chợ Chiền (Quỳnh Vinh), trước đây cầu gần đền thờ Lý Nhật Quang (đền Vưu), năm 1946 đến những năm 1960, cầu được làm bằng những thanh ray đường sắt, trên có lát ván, đảm bảo sự giao lưu giữa Giáp Yên với Thọ Vinh, qua chợ Chiền (Quỳnh Vinh).
Các trục đường chính:
Trục đường từ quốc lộ 1A (đã rải nhựa) đi xuống phía đông qua làng Kim Lung, cầu Ngọc Huy đi xuống Quỳnh Phương.
Trục đường nối từ quốc lộ 1A (đã rải nhựa) theo hướng tây - bắc đi Quỳnh Trang lên vực Mấu, một đoạn rẽ hướng tây đi lên các thôn 15 - 16 -17 và lên Quỳnh Trang.
2. Các làng, họ cổ xưa của xã Mai Hùng:
          Làng Ngọc Huy
Xưa có tên là Kẻ Đáy, đến thời Minh Mệnh 1840 đổi sang Ngọc Huy, sau cách mạng làng có tên là Mỹ Xuyên. Làng Ngọc Huy, phía đông giáp làng Hương Cần và làng Xuân úc (xã Quỳnh Phương và xã Quỳnh Liên), phía Tây giáp làng Kim Lung và phía Bắc giáp sông Hoàng Mai, xưa Ngọc Huy là một giáp của làng Dị Nậu.
          Làng Ngọc Huy được hình thành thời Lê, văn tự của làng còn giữ được làm năm thứ hai Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản) năm 1794. Dân số của làng lúc này có 87 suất có 36 đinh nam (tuổi từ 18 trở lên). Cách mạng tháng Tám -1945 làng có 50 hộ.
          Năm 1963, thực hiện chủ trương của cấp trên, người dân ở đây đã đi xây dựng vùng kinh tế mới ở Quỳnh Thắng hơn 20 hộ. Ngày nay, làng có tên là thôn 1 xã Mai Hùng.
Thời Quang Trung, làng có 5,07 mẫu nại muối. Cuối thế kỷ XIX, cụ phó tổng (Hoàng Mai) Nguyễn V¨n VÞ tổ chức dân quai đê ngăn mặn, chuyển đổi dòng chảy phía bắc sông Mơ, tạo lên hàng chục mẫu, đất lần lượt được ngọt hoá, nghề nông ra đời, làng được định cư và phát triển. Nguồn nước ngọt của làng khan hiếm, xưa nay nhân dân dùng nước giếng Mía ở phía Nam giáp với làng Xuân Úc. Giếng Mía nước trong, ngọt, có mạch nước ngầm không bao giờ cạn.
Xưa làng làm nghề đóng đáy, đóng cối xay lúa, nghề muối sơ khai là dựng lò chưng cất nước biển thành muối, về sau làm sân phơi gọi là muối đất, dân làm nghề này sau chuyển sang làm nghề nông.
Nghề buôn trẩy: Trước cách mạng có 20 thuyền mành buôn bán vận tải từ phía Bắc sông Hoàng Mai, chuyên chở lâm thổ sản đi bán ở Thanh Hoá, Nam Định và các vùng lân cận, lúc về vận chuyển nguyên vật liệu và những thứ hàng thiết yếu phục vụ cho gia đình và đưa bán ở các nơi. Nghề này chịu sự kiểm tra gắt gao của hai đồn: Đồn kiểm lâm Hoàng Mai và đồn Ngọc Huy đóng ở ngã ba sông.
          Nghề đóng cối xay: Nghề truyền thống của làng được truyền trong gia đình, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Với tính chịu khó, cần cù, ham học hỏi, nên những người thợ ở đây luôn tạo ra những kiểu dáng đẹp bền, chắc xay lúa ra gạo đều, gạo không lẫn thóc (không sống) bởi vậy được nhân dân trong vùng ưa chuộng và mời đi đóng cối các nơi.
          Dòng họ: Họ Nguyễn Đình, Nguyễn An, họ Lê...
Họ Nguyễn Đình, gốc Nguyễn Xí từ Nghi Lộc đến Ngọc Huy là đời thứ 13, (V« Vi cháu hậu duệ Nguyễn Xí) vào thế kỷ XVII đến nay được 12 đời (vào khoảng năm 1670-1671).
Họ Nguyễn An ở làng Hải Đà (Quỳnh Lộc), sau vụ tai ương: “Cua cớm dâng vua” dân làng này phải sơ tán đi nhiều nơi tránh sự tuyệt diệt. Họ đến từ đầu thời Nguyễn (1802) đến nay được hơn 14 đời. Họ khai cơ ra làng Ngọc Huy là họ Lê và họ Nguyễn...
Di tích còn lại là đền thờ Cao Sơn Cao Các. Đền ở phía Tây gần ngã ba sông. Đền làm theo hình chữ T, toà trong làm dọc 3 gian, toà ngoài làm ngang hướng về phía Nam rộng 3 gian. Diện tích của đền hơn một sào có tường bao, phía trước tường xây bằng tiểu sành trong bỏ cát, cổng ra vào có 2 cột nanh trên có nghê chầu, phía Tây của đền có một am nhỏ trong có bia đá ghi công của những người đóng góp và chạy hậu xây dựng đền. Đền làm thời Nguyễn chạm trổ công phu. Hiện nay, đền chỉ còn toà trong, hai ông Phỗng bằng đá nhỏ, hai tượng quan văn võ to, đòn rỗng, thần vị, kiệu, là những hiện vật quý còn lại qua năm tháng khốc liệt của thiên nhiên và chiến tranh, trong đó có một phần tàn phá của con người. Di tích này đã được tôn tạo, bảo vệ cho thế hệ mai sau.
Đồn Tây (Ngọc Huy) ở ngã ba sông, kiểm soát muối, hàng hoá từ các nơi khác đi qua sông Hoàng Mai. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật làm đảo chính hất cẳng Pháp. Đồn là nơi tụ tập các cuộc mít tinh và ra mắt thanh niên Phan Anh của huyện Quỳnh Lưu (tổ chức này do Nhật dựng lên, nhưng ta lợi dụng để hoạt động cho Việt Minh). Tháng 1 năm 1946 đồn là trụ sở của chính quyền cách mạng tổng Hoàng Mai. Ngày nay, đồn đã bị phá không còn vết tích.
          Ngày 4 tháng Giêng hàng năm, làng tổ chức gặp mặt những người con đi xa, gặp các cụ cao niên trong làng để các cụ nhắc nhở con cháu đi xa phải nhớ về cội nguồn đất tổ.
          Hiện nay, làng còn lưu giữ được Thúc ước, Hương ước của làng đó là việc: “lập ngũ gia liên bảo”, 5 gia đình gần nhau phải bảo vệ tính mệnh và tài sản cho nhau; giúp nhau khi tắt lửa tối đèn. Truyền thống đó ngày nay được phát huy, góp phần bảo vệ trật tự, giữ gìn an ninh thôn xóm.
Vùng đất cát khô cằn, đồng chua nước mặn này, xưa từng có câu:
“Mật vọng, đường ve, hoa quả ó
Vườn đưng, ao cáy, cánh đồng gà”
Mặc dù vậy nhưng nơi đây sự “tôn sư trọng đạo” được đặt lên hàng đầu, dù nghèo củng cố gắng cho con biết chữ. Qua nhiều thế hệ có nhiều người học giỏi, thi đỗ ở các kỳ thi hương, thi hội. Đời Lê có 4 ông Nguyễn Đình Danh, Nguyễn Đình Tố, Nguyễn Đình Quang riêng Nguyễn Đình Thực thi đỗ 2 khoá tú tài. Họ có công thành lập làng Ngọc Để, hàng năm họ được tế vào rằm tháng 11 (ÂL, gọi là đông chí), trong văn tế có đoạn viết:
"Thuở xưa tổ ở Trà Linh                     
Xã Thụy Liên, Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình    
Lo cho cuộc sống nhân sinh                         
Hai anh em ruột đồng hành ra đi        
Hơn ba trăm n¨m vào đây
Tæ ®Õn Qúi Vinh, Dị Nậu, Ngọc Huy
Đất thơm neo đậu quê này
Khai cơ lập nghiÖp ngày càng đông vui".
Thời Nguyễn: ông Nguyễn Đình Trược thi 3 khoá đỗ cử nhân, ông cũng là nhân sĩ chống Pháp nổi tiếng của làng. Bài thơ của ông nói lên ý chí chiến đấu và tương lai tất thắng của dân tộc:
“Nước rửa hận, đời sẽ trả xong           
Hãy quên danh lợi cả đôi đường         
Cao sâu tưởng tới thần tiên khách       
Rộng lớn xây nền hạnh phúc chung
Bao dãy lâu đài non nước đẹp
Cả vầng trăng sáng ngát hương thơm
Dẫu trời cao thế, nhưng tìm thấy
Đến chốn bồng lai có rượu nồng”
Cháu nội cử nhân Nguyễn Đình Trược là Nguyễn Đình Thước thi 3 khoá đỗ tam trường (tỉnh trường thí sinh) là tác giả Thúc ­íc của làng.
Văn Nghệ: làng có một gánh tuồng nổi tiếng cả vùng, được các làng khác mời đi diễn các vở: “Tam quốc diễn nghĩa”, “Trưng Trắc Trưng Nhị”... Ngoài ra còn các kiểu hát ghẹo (hát giao duyên) trống quân, hò Thanh Hoá. Đặc biệt, làng Ngọc Huy còn lưu giữ bản thúc ước của làng. Thúc ước nói lên cảnh vật, con người cũng như phong tục tập quán.
Làng Kim Lung:
Xưa ở chân động Kiêu, Bắc giáp sông Hoàng Mai, nam giáp Xuân Hoà (Quỳnh Xuân), Đông giáp làng Ngọc Huy ngăn cách bởi dòng sông Mai, Tây giáp làng Yên Phú, xa xưa có tên gọi là Kẻ Trường. Thời Lê là Kim Long. Do phạm tên Huý tên vua Gia Long, nên thời Thiệu Trị làng đổi tên làng Kim Lung.
Thế kỷ thứ IX, khi kênh nhà Lê được khai thông qua phía Đông, động Kiều, làng Kẻ Trường trở nên sầm uất, là nơi hội tụ của các thuyền buôn, các thuyền quan lại phương Bắc dừng chân buôn bán, vãn cảnh cả vùng nhất là cảnh đẹp ở động Kiêu. Ngày nay, sau khi khảo sát nghiên cứu, kết hợp với những di sản còn lại ở Động Kiêu; Lưỡi cuốc, Lưỡi rìu bằng đá (đó là dấu vết của thời đại đồ đá nằm trong hệ văn hoá Quỳnh Văn). Kết hợp giữa phong thổ diễn ca của làng và đồng tiền có chữ “Khai nguyên thông bảo”, chứng tỏ từ thế kỷ thứ VIII năm 791, ở chân Động Kiêu đã có sự giao lưu phát triển hàng hoá. Đến đời Trần – Lê từ chân núi Động Kiêu (xóm Vườn Trong) địa bàn cư trú dần dần mở rộng đến giếng Dung, xóm Khe; đời Nguyễn dân làng tiếp tục di chuyển về xóm Hạ. Thời đánh Mỹ, một bộ phận dân cư lại từ xóm Hạ chuyển lên chân Động Kiêu.
Theo truyền thuyết được ghi thành thơ. Từ lúc làng ở ven động Kiêu chuyển về xóm Trong, giếng Dung có bà Lang người họ Trần, quan chưởng người họ Nguyễn, 2 người có tài thiên văn, địa lý, tướng số... đã xem phong thổ, yểm ma tà cho làng.
`         “Bà Lang để tiếng thơm lây
Bà cùng quan chưởng đồng thời tìm ra
Địa linh nhân kiệt thực là
Bỉ trời có thái, thực là quả nhiên”
Đến thế kỷ XIX, dân làng ven động đã tràn xuống xóm Hạ lập thêm nghề mới, nhưng giữa hai làng vẫn sầm uất đông vui.
          Xa xưa đền Thị thờ Cao Sơn, Cao Các, thời Gia Long (năm canh ngọ 1810), làng lập đền thờ giữa đồng Bông nên có tên gọi là đền đồng Bông, nay gọi là đền Kim Lung.
Làng kẻ Trường xưa có 4 chùa không có nhà, không có tượng phật, chỉ có một bàn đá giữa trời. Chùa Tây Hồi có 3 hòn đá dựng, lúc gõ vào có âm thanh như tiếng chuông. Khẩu truyền các chùa đó người tàu dựng lên để dấu của.
          Đền Quan Hàn, thờ quan họ Nguyễn, đÒn Hiệp gần Động Kiêu có 2 toà, cây cối xanh tốt thờ ông ĐËu Kháng người có công khai cơ lập ấp nên làng Kim Lung.
Đình làng được dựng ở mương cây Đa vì vào thời Minh Mệnh ở đây có gốc đa cổ thụ. Đình có 2 toà, chạm trỗ theo thời Nguyễn có 2 cột nanh cao 9 thước (3,6 mét), trên đỉnh cột có nghê chầu. Nhà Thánh thờ Khổng Tử có 2 toà gần đền Đồng Bông, thờ 11 vị có học: Đậu Kháng Hoàn, Nguyễn Cự, Trần Uông, Trương Công Bá, Trương Châu Nhàn, Nguyễn Bá, Nguyễn Thơi Tề, Nguyễn Trương Thoan, Ngô Danh Chu, Nguyễn Thời Nghi.
          Giếng Dung ở chân Động Kiêu, đào từ thời Bắc thuộc, được ghép bằng đá nói (đá cơm) to bản nhẵn bóng; nước giếng trong mát không bao giờ cạn.
          Giếng Đình, đường kính khoảng 3 mét, nước ngọt, không bao giờ cạn, ngày nay dân làng vẫn dùng, xưa dân Dị Nậu thường sang lấy nước giếng Đình về để nhuộm sợi tơ tằm, dùng cho việc làm nghề đánh bắt cá biển. Giếng Trên gần Đồng Bông, đường kính 3 mét, xây đá đã bị lấp, ngoài ra còn các giếng: giếng Sanh, giếng Hiệp ở quanh Động Kiêu. Xưa dân làng so sánh nước của 3 giếng.
          “Nước giếng Sanh vừa lành vừa mát
          Nước giếng Hiệp vừa chát vừa chua
Nước giếng Dung 3 mạch chảy ra”.
Làng Hạ ra đời khi đồng Trường (Đồng Bông), nước biển đã lùi để lại 99 cồn đồi nhô trải dài mỗi cồn rộng vài ba mẫu. Lúc đầu mỗi cồn chỉ có một hộ đến 3 hộ, hoặc một chi phái của một họ. Họ khai phá đất dựng nhà, trồng khoai, cấy lúa quanh cồn. Dần dần về sau dân làng hợp lực đắp đê ngăn mặn, ngọt hoá, bồi đắp tái tạo mở rộng diện tích trồng lúa nước. Quá trình hình thành làng đến lúc phát triển, dân làng dựng đình, dựng đền rước các thần xung quanh động Kiêu về để sớm hôm tế lễ.
Từ thời Trần đến nay, làng Kim Lung có 21 họ lớn: họ Vũ - Trần - Ngô - Hồ - Nguyễn.
Họ Vũ có mặt ở làng sớm cùng với các họ: họ Hồ, Ngô, Trần, Lê..., khai cơ lập ấp lên làng. Ngày nay, họ Ngô là họ lớn nhất ở làng Kim Lung, họ có gốc tổ ở Diễn Kỷ, Diễn Châu. Các họ dù đến sớm hoặc muộn, dù ít hay nhiều đinh cũng đều chung lưng đấu cật, đoàn kết xây dựng nên cộng đồng làng xóm để ngày càng phát triển.
          Làng lưu giữ được “Sự tích làng Kim Lung”, do văn hội của làng biên soạn năm 1921() Phong thổ diễn ca của làng viết thời Thiệu Trị 1841.
Qua nhiều lần đổi tên, biết bao thế hệ nối tiếp nhau đã dựng xây cộng đồng văn hiến, tập tục xưa và nay hoà quyện làm tô điểm thêm một làng có nền văn hoá lâu đời.
Làng Yên Phú
Xưa gọi là làng Quang, phía bắc giáp thôn Yên Lộc - Yên Trạch và làng Thiện Kỵ, phía Đông giáp Dị Nậu, phía nam giáp làng Xuân Hòa (Quỳnh Xuân) và Tây giáp làng Nhị Yên - Trang Họ (Quỳnh Trang), làng Yên Phú có 3 xóm() Yên Lễ - Yên Thượng và Thịnh Mỹ, trước cách mạng tháng Tám, làng có 170 cử tri nam, 30 thẻ đỏ và 40 thẻ mốc (thẻ đỏ được miễn phu đài tạp dịch), có 360 mẫu ruộng canh tác.
Thời Nguyễn, làng thuộc xã Vũ Duyệt. Trong 80 năm đô hộ của thực dân Pháp làng thuộc tổng Hoàng Mai, sau cách mạng tháng Tám - 1945, làng cùng với Kim Lung - Ngọc Huy - Yên Phú được sát nhập có tên là xã Văn Hiến. Năm 1947, sát nhập với Phương Cần (Quỳnh Phương) gọi là xã Văn Phương (xã Văn Hiến nhập với làng Phương Cần).
          Tháng 4 năm 1954 Yên Phú cùng với 2 thôn Yên Lộc - Yên Trạch thành xã Quỳnh Hợp.  Năm 1969, nhập Quỳnh Kim và Quỳnh Hợp thành xã Mai Hùng.
Làng Yên Phú hình thành đầu đời Trần, ổn định đất đai ở thời Lê. Ruộng đất của làng nhiều, người ít, làng lập 9 quyển địa bạ, thời thuộc Pháp 9 quyển địa bạ bị mất.
          Nghề nghiệp: chủ yếu sống bằng nghề nông và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Hộ gần sông nước làm nghề đăng đó bắt cá, hoặc làm nghề vận tải dọc theo sông Hoàng Mai, chở nguyên vật liệu đá, củi, gỗ, tranh, tre. Một số người làm nghề bốc thuốc bắc (nghề này lưu truyền qua các thế hệ cho đến hiện nay).
Các họ có sớm ở làng: Họ Đậu, họ Trần, họ Đinh, họ Văn, họ Lê, họ Vũ, họ Phạm, họ Nguyễn. Họ Trần có nhiều đời, họ Đậu có đinh nhiều thứ 2 sau họ Văn.
Các dòng họ ở làng Quang, dù đến sớm hay muộn đều có công khai phá đất đai, xây dựng cộng đồng, làm nên những công trình văn hoá có giá trị.
          Đền ông Phỗng, đền lớn nhất của làng. Đền thờ thượng ngàn công chúa (Bạch Y đại Vương), người con gái bị giặc hãm hiếp đã chết, trong lúc hoạn nạn, bị giặc Minh đuổi, Lê Lợi đã gặp và ông đã cầu nguyện có linh ứng, người con gái đã biến thành con cáo trắng, giúp Lê Lợi thoát khỏi sự truy bắt của iặc Minh
Đền được khởi công xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867 (thời Nguyễn) ở phía Tây hữu ngạn sông Hoàng Mai (gần cầu Hoàng Mai). Đền có 3 toà: Thượng - Trung và hạ điện, hướng về phía đông - nam. Đền làm bằng gỗ lim to cao, cột cái một người ôm không xuể. Các xà, kèo... được chạm trổ theo tứ linh: "long, quy, ly, phượng". Đồ tế khí nhiều, được sơn son thiếp vàng rất đẹp. Hai ông tượng Phỗng tri quì trước cửa (ông Phỗng to nên dân thường gọi là đền ông Phỗng), nổi nhất là đôi ngựa làm bằng gỗ to như ngựa thật, một con bạch (trắng) một con tía (hồng), được trang điểm đẹp trong ngày lễ hội. Đền có 2 kiệu rước đẹp, được sánh với kiệu rước Tứ Vị đền Cờn. Hai cột trước đền có Nghê chầu, cây cối xanh tốt um tùm làm tăng vẻ uy nghi của đền. Xưa kia người đi qua không dám nhìn vào sợ “Ngài trách". Cảnh đẹp của đền có thơ miêu tả:
"Đôi bờ sơn thủy hữu tình
Tả, hữu long hổ đưa tranh chầu vào"
Đền có cây cao bóng cả, dưới sông Mai cá lội tung tăng, thủy triều uốn khúc, chu thuyền vũ án ngự xa xưa thiên tạo bày.
Đình làng Yên Phú to cao, có khuôn viên rộng hơn 90 m2, có 2 cột nanh cao gần 6m, trên có Nghê chầu. Đình có 2 tòa làm bằng gỗ lim, được chạm khắc công phu. Trang trí nội thất (kiệu, long đồ tế đầy đủ, uy nghi). Tòa là nơi hội họp của làng, tòa trong thờ thần hoàng, người có công khai cơ lập ấp. Đình làng trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) là nơi huấn luyện du kích bảo vệ, quê hương. Đến kỳ tế lễ, các thần ở các nơi trong làng đều được ngựa, kiệu rước về đình cùng với dân làng mở hội.
      Miếu Nghè ở xóm 10 do ông Đậu Viết Dao khởi xướng làm năm 1861, miếu thờ quyền đình thiên giáng, linh thần tiên ứng, tiền triều sắc phong Dực Bảo Trung Hưng, tăng phong thần chỉnh linh tứ thần. Miếu có 2 tòa, tòa trong thờ thần, tòa ngoài là nơi của người đến làm lễ thắp hương, trước miếu có khuôn viên rộng gần 60 m2, cả khu vực miếu có tường xây bao quanh. Trước cổng vào có 2 cột nanh, trên có nghe chầu. Trước cửa sân có hổ phục. Sau cách mạng tháng Tám, miếu là nơi sinh hoạt Đảng của Chi bộ Trung Kiên.
        Chùa Yên Lễ ở Rú Chùa, chùa chỉ có một mái, trong có nhiều tượng phật đẹp nằm ở phía nam làng, gần rú Thờ, không có nhà chỉ có 3 bộ bàn thờ gọi là chùa Trần. Miếu nghè Văn ở đỉnh núi Rấm (nay là địa giới giáp với Quỳnh Tân).
          Làng Yên Phú có 4 cái giếng nước: giếng làng, sâu khoảng 6m, có mạch ngầm quanh năm không cạn nước. Nước có vị mặn, dùng trong sinh hoạt hàng ngày, đặc biệt khách từ nơi xã đến nhất là con gái nếu tắm rửa ở giếng sau một thời gian sẽ làm cho làn da trắng trẻo; giếng Xóm, sâu khoảng 5m, mạch nước trong hơn, giếng không bao giờ cạn kể cả lúc trời đại hạn. Giếng không chỉ được sử dụng trong làng, mà cả một số làng Dị Nậu (Quỳnh Dị) sang lấy về dùng; giếng Mỗi và giếng Cửa Nương, nổi tiếng cả vùng Hoàng Mai, nước trong mát và không bao giờ cạn.
          Văn học nghệ thuật
Gia phả của các họ hầu hết đều giữ được, hoặc đã sao chép lại qua nhiều thế hệ, ghi rõ nơi gốc tổ của họ và sự lưu truyền qua các đời, đồng thời khuyên bảo con cháu làm nhiều việc thiện, có ích cho người, cho đời.
Hương ước, địa bạ của làng Quang tiếc rằng bị thất lạc, nhưng qua khẩu truyền và các cụ còn nhớ lại cho biết. Hương ước của làng ghi chặt chẽ từng điều khoản, xây dựng cộng đồng con người đối với con người, nghĩa vụ của con cháu đối với ông bà cha mẹ; nghĩa vụ của mỗi người đối với việc bảo vệ đình, đền, chùa, miếu và bảo vệ ruộng đồng và hương ước cũng nói đến sự học hành thành đạt (khuyến học).
Khoa bảng: theo gia phả họ Lê, trong họ có nhiều người là sinh đồ, đặc biệt có cụ được triều Lê phong tước “quản lĩnh hầu”. Đời Tự Đức (1847-1883), con cháu các chi tạc bia đề rõ: “Lê triều tướng công  Quản lĩnh hầu” Hiện nay, bia đó đang lưu giữ tại nhà tộc trưởng Lê Bá Duyên thôn 8. Phần mộ được an táng tại núi Sui.
Họ Văn: Cụ Văn Đăng Khoa đỗ cử nhân làm quan thời Trần - Lê được phong tước quận công, thời Trịnh - Mạc nhiều người làm quận công. Bởi vậy, nhà chúa Trịnh cho rằng các quận công họ Văn, ví như: ông Văn Sỹ Vệ (dòng dõi họ Văn) xuất tiền của, chiêu tập dân binh cùng với Lê Duy Mật đóng đồn ở Trú Kỵ (thị trấn Hoàng Mai), nhưng chưa đủ lực, ông cùng Lê Duy Mật dời bản doanh lên Xuân Giai (Tân Kỳ) chờ thời, mưu kế lâu dài. Bởi vậy chúa Trịnh cho người tìm vào núi Sứ để yểm huyệt mộ.
Các họ Lê, họ Nguyễn, họ Đinh, họ Đậu... đều có nhiều người đỗ sinh đồ (tú tài).
Thôn Yên Lộc, Yên Trạch
Xưa gọi là xóm Nhồi sau đổi là Yên Lạc, từ Yên Lạc tách ra xóm Cung. Thời Lê - Nguyễn đổi thành Yên Lộc và Yên Trạch.
Phía Bắc giáp làng Thọ Vinh (Quỳnh Vinh) được ngăn cách bởi dòng sông Mai, phía tây - bắc giáp xóm Chiền (Quỳnh Trang), phía Nam giáp xãm Yên Lễ (Yên Phú), phía Đông giáp làng Thiện Kỵ. Lúc mới hình thành Yên Lạc thuộc làng Dị Nậu (Quỳnh Dị), sau đó tách ra nhập vào làng Thọ Vinh, Yên Lộc - Yên Trạch thuộc giáp Yên của 4 giáp: Đông - Đoài - Phú - Quý của làng Thọ Vinh thuộc tổng Hoàng Mai.
Ngành nghề: 2 thôn Lộc - Trạch, ruộng ít, nghề nông vẫn là chủ yếu. Các cánh đồng nhỏ hẹp: Rộc Chìa, rộc 3 Phần, cửa Nương, cửa Trỗ, bờ Đồng, rộc Me, rộc Lân (rộc Me, rộc Lân ngày nay thuộc xã Quỳnh Tân). Nên phải cày rẽ đập Vức cho làng Quang. Đồng Vức rộng nhưng thấp trũng chỉ làm được vụ 5 nhưng bấp bênh năng suất lúa thấp (70-80kg/sào). Không đủ ruộng làm, dân 2 thôn phải đi khai hoang vỡ hoá ở các chân núi và sườn đồi quanh núi Sứ để trồng sắn, khoai, chè, mít, dứa. Các nại đó: nại ông Trường Đa phía tây núi Sứ, ông Quách Hữu Trịnh, ông Quách Hữu Bích ở ở đội Vấn... tất cả vùng bãi Vông, rú Oi, quanh thủng Quan huyện, Côn Viên, Yên Ngựa, chân rú Lăng đều có chủ nại trồng chè, dầu trẩu, mít, dứa, trồng khoai, sắn.
Cùng với nghề nông, việc chăn nuôi gia súc, gia cầm đã đưa lại nguồn lợi kinh tế, nhiều nhà có của đã đầu tư, thuê người chăn nuôi bò ở đồng Sặm (nay thuộc xã Tân Thắng) và Thủng Sặt.
Nghề buôn trẩy cũng được phát triển, các thuyền mành lớn của các nhà giàu có: Giáp Duy (bố ông Nguyễn Văn Cờn thôn 12), ông Tiệp, ông chánh Xí... vận tải đi xa buôn bán lâm thổ sản và đưa những hàng hoá thiết yếu về: vải, cá khô, nước mắm bán ở chợ Chiền.
          Nghề rèn phát triển sớm, xưa có ông họ Nguyễn Xuân, lập lò rèn ở Cồn Hóp (nay thuộc xóm 14) cung cấp vũ khí cho nhà  hậu Lê đánh lại nhà Mạc, nghề rèn được truyền theo hệ gia đình duy trì cho đến ngày nay.
Nghề bốc thuốc bắc được phổ biến cả 2 thôn, hiện nay vẫn có những bài thuốc gia truyền trị được các bệnh hiểm nghèo.
Nghề làm ngói phát triển, trước cách mạng tháng Tám, lúc đầu thuê người Thượng Yên (Quỳnh Yên) làm cố vấn; sau này người địa phương đảm nhận. Lò ngói dựng ở Rộc đình.
          Các di tích: Đình làng Yên Lộc ở trung tâm xóm, mặt ngoảnh về phía Nam. Đình có hai toà  có tường bao, sân lát gạch, cổng ra vào có 2 cột nanh cao, trên có nghê chầu, nay chỉ còn lại toà ngoài. Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đình được nhà nước sử dụng làm nơi sản xuất vũ khí.
Đền cửa Truông (cửa thần rú Làng), thờ Lý Nhật Quang, con trai thứ tám của vua Lý công Uẩn, xưa đền làm bằng tranh (gần lò vôi, cầu Phao hiện nay). Trong binh đao, hoả hoạn đền bị cháy chuyển về cửa Truông.  Đền nhờ thần bản thổ của Giáp Yên (Đền nhỏ): sắc phong, thượng đẳng thần Thái Bảo Trung Lương thuận y Quang Vân Thái Bảo Trung Lương thuận.
Chùa ở phía Bắc núi Sui (thuộc vùng Yên Lộc) trước chùa có tượng chó đá ngồi trên phiến đá to trước sân có gốc nhãn, gần chùa có giếng nước. Hàng năm đến rằm tháng Giêng, bày cỗ tế từ 8 đến 10 mâm (Lễ thập loại chúng sinh), lễ vật đơn giản, chủ yếu là nổ (hạt gạo) và một ít hoa quả. Tế xong hạ lễ là phân phát cho trẻ nhỏ (ai tranh mạnh thì được nhiều).
Nghè xóm Cung (Yên Trạch) thờ thần bản cảnh. Trước nghè làm bằng tranh (ở rộc 3 phần) sau dời phía Đông chân rú Sui, nghè có 2 toà, toà ngoài nửa mái, xung quanh có cây xanh tốt, phía trước có 4 cây thông to, do ông tổ người họ Quách trồng. Bên trong có bệ thờ, sau ông Thất Ngoan người họ Văn làm ký lục về cúng tiến cho nghè, một hương án, một giường thờ 2 cấp (cấp trên Ngài ngồi, phía dưới thuộc bệ hạ của Ngài).
Hai thôn đều có giếng đào hình xoáy ốc, đường kính rộng 15 - 30 mét, sâu 4 -6 mét, không ghép đá chỉ làm bậc lên xuống, hiện nay vị trí các giếng vẫn còn.
          Ba năm một lần, làng rước thần bản thổ ở cửa Truông sang làng Thọ Vinh để hội tế (đại khoá) kiệu của giáp Yên nhỏ, đẹp nay vẫn còn ở đền Vưu. Ngày đại tế (rằm tháng ba) ở đình Yên Lộc dân làng cũng làm lễ hội, ban ngày tế lễ, ban đêm diễn tuồng, hát xướng. Hội đua thuyền Lộc - Trạch cùng với các làng Thọ Vinh, Qúi Vinh... hàng năm vẫn tham gia đua thuyền với hàng tổng. Thuyền đua gọi là lé, thân dài, mũi nhọn, lướt nhẹ nhàng. Thường thường thì làng Thọ Vinh thắng cuộc.  Nhưng có một kỳ, khi bơi đến Cổ Bù (Yên Trạch và Thiện Kỵ) thuyền làng Dị Nậu vượt trước, ông trưởng thuyền họ Nguyễn Xuân hô dân làng ghé vai chạy tắt qua cổ Bù, nên thuyền Thọ Vinh vẫn thắng. Khi ông mất được vọng tế ở đền Vưu.
Họ Lê gốc ở Thanh Hóa vào gồm (Lê Công, Lê Hữu, Lê Bá, Lê Xuân....)
          Họ Văn: Đậu cử nhân có ông Văn Đức Duân, Văn Đức Trứ được phong hàm cửu phẩm, ông Văn Đức Ngoan được phong học phẩm.
Họ Nguyễn (có các tên lót Xuân - Văn - Hữu - Bá) gốc từ Thanh Hoá vào đến nay hơn 10 đời, họ Bùi... định cư thời thuộc Pháp.
Họ Quách, có gốc từ Thái Bình. Lúc đầu họ cư ngụ tại làng Dị Nậu (9 đời) sau lên Yên Trạch, đến nay hơn 10 đời (tổng cộng  20 đời).
Ngày nay gia phả các họ đã được dịch ra quốc ngữ. Nhà thờ được xây dựng trong nhà tộc trưởng để dễ bảo quản, cúng tế.
Văn học: Các văn tự thành văn chỉ còn gia phả, văn thơ sáng tác nói về làng lưu truyền trong trí nhớ của các cụ cao niên ở quê hương, ví như bài ca ngợi phong thổ của làng (trích).
          " Làng ta phong cảnh vui thay                     
          Bên Đông thì giếng bên Tây thì đền             
          Trước cửa Nam lên                                       
          Núi sui Sơn nhất đái       
          Sông Hoàng Mai giao lại
          Nước thuỷ triều trấn lên
          Xem phong cảnh các miền
          Đất đâu hơn mấy kể"...
Ngoài ra còn có tục hát ví, đò đưa, đối đáp... thịnh hành ở đất Lộc - Trạch thuở xưa.
Tóm lại, vùng đất Mai Hùng thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 3 (602 - 905). Theo địa chí văn hoá Quỳnh Lưu các làng: Ngọc Huy, Kim Lung, Yên Phú, Giáp Yên (Yên Lộc - Yên Trạch), cuối thời kỳ Bắc thuộc đã có con người sinh sống. Mai Hùng được khai phá mạnh mẽ từ thế kỷ thứ XI, thời Lý, nhờ công của Lý Nhật Quang con trai thứ 8 của vua Lý Thái Tổ, được phong là “Uy Minh Hầu”. Năm 1041, triều đình xuống chiếu cử làm tri châu Nghệ An. Vào Nghệ An, với tài kinh bang tế thế, ông quan tâm đến chính trị, kinh tế và quân sự. Năm 1044,  Lý Thái Tông thân chinh cất quân đi đánh Chiêm Thành. Lúc về “đến hành dinh Nghệ An, gọi Uy Minh Hầu Lý Nhật Quang đến để an ủi và trao tiết liệt cho trấn thủ châu ấy, gia phong tước vương”. Vì trước đó ông đã có công đặt trại Bà Hoà ở Hoàng Mai (vùng phía đông bắc thị trấn Hoàng Mai), chiêu dân, dựng ấp, tích trữ lương thực, ông sức cho dân nạo vét kênh Son (còn có tên gọi: kênh bà Hoà, kênh nhà Lê hoặc kênh Dâu) để thuyền nhà vua đi lại được dễ dàng. Khi ông mất cả vùng Hoàng Mai nhiều nơi lập đền thờ, cả huyện Quỳnh Lưu theo thống kê chưa đầy đủ có gần 40 đền thờ.
Khai khẩn đất đai, lập làng là công lao, sức lực của nhiều dòng họ và qua nhiều thế hệ. Điều đáng trân trọng các họ đến đây dù nhiều đinh hay ít đinh đều đồng cam cộng khổ xây dựng xóm làng, quê hương.
                                                 
Chương II
TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN MAI HÙNG TRƯỚC VÀ SAU KHI CÓ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
I. Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
1. Các làng xã, với những truyền thống đấu tranh.
Trải qua hàng ngàn năm đấu tranh sinh tồn và phát triển, các làng tuy có phong tục tập quán khác nhau, nhưng tất thảy vì cuộc sống, họ đã đồng tâm hiệp lực chống trả với thiên nhiên khắc nghiệt, chống lại thú dữ “chân voi móng hổ chồng chéo lẫn nhau” ở các núi bao quanh xóm làng. Chống giặc ngoại xâm, chống phỉ, hải tặc, chống áp bức bóc lột. Trong quá trình đó xuất hiện nhiều gương tập thể và cá nhân tiêu biểu.
Thời Lê: cả vùng đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi chống lại nhà Minh xâm lược, trong đó nhân dân Mai Hùng góp phần tích cực được Lê Lợi phong thưởng và cho dựng đền thờ “Bạch Y Đại vương”. Họ Nguyễn Xuân dựng lò rèn ở cồn Hóp rèn vũ khí giúp nhà Lê, thung Bằng, thung Nhọn ở phía Tây Bắc của xã là bãi tập của lực lượng nhà Lê.
Trận kịch chiến giữa Phạm Đình Trọng với Nguyễn Hữu Cầu trên đất Hoàng Mai (vùng núi Xước), Nguyễn Hữu Cầu bị  bắt. Phò Lê diệt Mạc dòng họ Lê Công (Lê Công Hiền hiện nay ở  thôn 17) có 4 ông có công được sắc phong:
Ông Lê Công Nha, "Ngày 22 tháng 2 năm 1734, thời Cảnh Hưng năm thứ 44, ngày 12 tháng 2 năm 1771, phong cho ông chức: Phản lực đại tướng quân".          Em ông Lê Công Nha được phong: "Lê triều lương y viện". Con trai đầu, tự Đoan Chính được phong "Nam chức kiêm phó sứ", người con thứ 2  tự Công Ngân được phong: "Lê triều phản lực đại tướng quân, tư tráng sĩ, bách hộ chức".
Tinh thần quật khởi của nhân dân bùng lên mạnh mẽ, tập hợp dưới ngọn cờ áo vải trong thế kỷ XVIII (phong trào Tây Sơn khởi nghĩa). Những lần kéo quân ra Bắc Nguyễn Huệ được đông đảo nhân dân Nghệ An, Quỳnh Lưu, trong đó có nhân dân các làng xã Mai Hùng ủng hộ: xung lính, xuất tiền nuôi quân.
          Thời Gia Long: Thổ phỉ từ lèn Răng Cưa, Đồng Lách tràn xuống do tên Sáu, Tình, Miện cầm đầu, hoạt động cướp dật cả 4 vùng: Quỳnh Lưu, Đông Thành, Ngọc Sơn (Nghệ An), Nông Cống (Thanh Hoá) nhân dân đều sợ hãi. Khi đến cướp phá làng Kim Lung, chúng đã bị dân làng tiêu diệt. Thành tích đó được quan huyện thưởng chung cho cả làng 140 quan tiền.
Họ Văn (Yên Phú), ông Văn Đức Bảng làm quan đô đốc (lính thuỷ) thời vua Đồng Khánh. Thời vua Bảo Đại có ông Văn Đức Năng tham gia cuộc binh biến chợ Rạng (Đô Lương), chống lại thực dân Pháp, ông bị bắt và bị tử hình cùng với ông Đội Cung đứng đầu cuộc binh biến.
Cuối thế kỷ XIX, nhân dân vùng Hoàng Mai tham gia cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất 1873 do Trần Tấn - Đặng Như Mai chỉ huy. Lúc đại bản doanh đóng ở làng Thiện Kỵ, có các ông Nguyễn An Lũng (Ngọc Huy) và một số sĩ phu - nho học tham gia.
          Thời kỳ Cần Vương có cụ cử nhân Nguyễn Ngọc Quang tham gia. Cụ Đội Văn người Thọ Vực lấy vợ người họ Trần làng Kim Lung tham gia chống Pháp, chúng treo giải thưởng hễ người nào lấy được đầu cụ sẽ có thưởng lớn. Do lòng tham, cụ bị người cận thần giết hại. Mộ cụ được an táng cạnh đường quốc 1A (Dốc cửa Nương), được cả vùng kính trọng, bốn mùa dâng hương khói (nay do yêu cầu mở rộng quốc lộ 1A nên mộ đã được di chuyển về vị trí khác), hiện nay họ Trần ở Kim Lung vẫn thờ vọng.
2. Một số biến đổi lớn sau khi thực dân Pháp chinh phục nước ta.
Năm 1884, triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước Patơnốt, dâng nước ta cho thực dân Pháp. Chúng chia nước ta ra làm 3 kỳ: Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ, ở mỗi kỳ chúng áp dụng chế độ kinh tế - xã hội khác nhau. Cùng với Lào, Cămpuchia hợp thành Đông Dương thuộc Pháp, nước ta bị xoá tên trên bản đồ thế giới. Xã hội Việt Nam từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến.
Huyện Quỳnh Lưu thuộc Trung Kỳ, được chia làm 4 tổng: Tổng Phú Hậu, Tổng Quỳnh Lâm, Tổng Thanh Viên và Tổng Hoàng Mai. Các làng, xã Mai Hùng thuộc Tổng Hoàng Mai, nơi đây in đậm dấu ấn của sự cấu kết chặt chẽ giữa thực dân Pháp với chế độ phong kiến triều Nguyễn.
Dưới tổng là làng xã, năm 1915 ở Quỳnh Lưu có 78 làng xã, đến năm 1925 có 82 làng, xã. Trong số đó có các làng: Yên Phú, Ngọc Huy, Kim Lung. Các làng, xã Mai Hùng bị kẹt giữa các đồn Tây, trại lính ở cả 3 phía. Phía Bắc có đồn Mỏ Kẽm, phía Tây-Bắc có đồn đóng ở  phía nam cầu Hoàng Mai đầu làng Yên Phú, phía Đông có Đồn Ngọc Huy để kiểm soát kinh tế, chủ yếu là muối và rượu. Mỗi đồn có một tiểu đội lính Lê Dương do đồn trưởng người Pháp chỉ huy.
Chính quyền thực dân phong kiến có bộ máy gọn, mỗi làng chỉ có từ 3-5 người. ở huyện đứng đầu là tri huyện người Việt, những người giúp việc, đề lại, thừa phái, lục sự, cạnh huyện có một đồn khố xanh và hình thành một số đồn theo từng khu vực: ví dụ như đồn ở Rú Đồn (ga Cầu Giát) có khoảng 20 lính do một sỹ quan người Pháp chỉ huy. Cũng như mọi nơi trong cả nước, quan lại cấp huyện, tuy là người Việt nhưng thực chất là do người Pháp chỉ huy.
Ở tổng, đứng đầu là chánh tổng, giúp chánh tổng có phó tổng, hàng xã có lý trưởng, giúp việc có phó lý, ngũ hương.
Trụ sở của huyện đường là chốn uy lực, thể hiện quyền thống trị tuyệt đối của chế độ thực dân phong kiến. Những người dân nào muốn kêu oan sai phải trình tri huyện xem xét trước, có tiền, có thế lực mới được gặp. Điều này thể hiện sự quan liêu của bọn hào lý, làm cho cuộc sống hàng ngày của người dân ở chốn làng quê bị đè nén, nhũng nhiễu tới cực điểm.
Chế độ sưu thuế, lao dịch của thực dân khá nặng nề, nhất là sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918), chúng đẩy mạnh khai thác thuộc địa lần thứ nhất, chúng tăng thuế, đặc biệt là thuế thân từ 18 tuổi trở lên. Năm 1898, ở Trung kỳ, thuế thân thu 3 hào trên một đầu người, nhưng hàng năm các thứ thuế tiếp tục tăng lên khoảng 8%, đến năm 1929 chúng tăng lên 20%. Thuế điền thổ (đất đai), năm 1929 tăng lên 30%. Mỗi kỳ thu thuế, xóm làng điêu linh, dưới luỹ tre làng là nỗi thống khổ, rên xiết của người dân nghèo. Trống thúc, mõ la, lục soát, đánh đập, nhà tan cửa nát. Những đợt thu thuế từ làng, xã đến tổng, huyện bọn quan lại tha hồ vơ vét, nhũng nhiễu người dân. Có lúc chúng tự tiện tăng thêm mức thuế, đặt thêm loại thuế để bỏ vào túi cá nhân. Cứ mỗi lần thu thuế, ruộng đất của người nông dân lao động dần dần mất vào tay địa chủ, hào lý.
Thuế thân năm 1893 là 0,3 đồng một suất, sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất tăng lên 2,9 đồng một suất, năm 1928 tăng lên 3,6 đồng một suất, hết thuế lại đến phu phen, tạp dịch diễn ra liên tục. Những đợt đi phu làm đường cũng như những đợt bắt lính đã làm chia rẽ, tan nát gia đình, nhiều người phải bỏ mình nơi rừng thiêng, nước độc do lao động quá mức.
Làm cho dân ngu để dễ bề thống trị là một thủ đoạn nham hiểm của chế độ thực dân phong kiến. Năm 1918, chúng bỏ chữ Hán chuyển sang dạy chữ quốc ngữ, mãi đến năm 1920 cả huyện Quỳnh Lưu chỉ có một trường tiểu học đặt ở Tiên Yên (Quỳnh Bá). Chúng khuyến khích mê tín dị đoan và các hủ tục lạc hậu. Các tệ nạn xã hội hoành hành dữ dội nhất là cờ bạc, nghiện hút thuốc phiện. Cả huyện chỉ có một sở y tế nhỏ đặt ở Nhân Sơn (Quỳnh Hồng), với một số thầy thuốc trình độ sơ cấp, thuốc men thiếu. Các dịch bệnh thường xảy ra, dân tình khổ cực, thiên tai lại liên tiếp xẩy ra, hết hạn hán lại bão lụt, giông bão thường xuyên gây đổ nhà. Ba năm Tỵ, Ngọ, Vỵ (1929 - 1930 - 1931), hạn hán liên tiếp 2 năm Ngọ - Vị, cả 3 năm, mùa thu nước lũ tràn về, làm cho cả vùng Hoàng Mai chìm trong biển nước. Trời nắng hạn nên nhà tranh vách nứa lại càng dễ cháy.
Những khổ cực đó dồn nén lên đầu người dân lao động, đến những ông chủ hiệu nhỏ cũng bị đế quốc phong kiến áp bức bóc lột. Vì vậy, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân các làng xã Mai Hùng một lòng đi theo Đảng đấu tranh giành tự do - độc lập.
II. Phong trào cách mạng của nhân dân các làng, xã Mai Hùng từ ngày có Đảng lãnh đạo đến Cách mạng tháng Tám năm 1945.
1. Tham gia cao trào cách mạng 1930-1931
Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời tại Hương Cảng (Trung Quốc), với sự hợp nhất 3 tổ chức Đảng là An Nam cộng sản Đảng (Bắc kỳ), Đông Dương cộng sản Đảng (Trung Kỳ) và Đông Dương cộng sản liên đoàn (Nam kỳ), chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cũng như giai cấp lãnh đạo của cách mạng nước ta. Từ đây, nhân dân ta đã có một tổ chức cách mạng chân chính, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; đảm đương sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân vùng lên đấu tranh giải phóng dân tộc.
Vừa mới ra đời do có đường lối đúng, Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân dấy lên cao trào cách mạng (1930 -1931), mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Ngày 20/4/1930, Đảng bộ huyện được thành lập tại làng Thanh Sơn (Sơn Hải) đã trực tiếp lãnh đạo phong trào. Nổi lên trong cao trào cách mạng 1930-1931 ở Quỳnh Lưu là các xã Quỳnh Thuận, Quỳnh Đôi, Sơn Hải đã có ảnh hưởng lớn đến nhân dân các làng xã trong huyện. Nhiều người có tư tưởng tiến bộ đã treo cờ đảng ở nhiều nơi. Năm 1931, ông Nguyễn Đình Quỳnh làng Ngọc Huy tổ chức nhân dân đánh lại Tây Đoan ở đồn Ngọc Huy, khi chúng vào làng lùng sục, bắt rượu và muối. Cùng năm này cờ Đảng được cắm ở núi Sứ, nghè làng.
Vào cuối năm 1931, phong trào đi vào giai đoạn thoái trào, địch tiến hành bắt bớ, khủng bố dữ dội, nhiều cán bộ đảng viên và hội viên của tổ chức bị bắn, bị tù, nhưng tinh thần cách mạng, ý chí đấu tranh chống thực dân, phong kiến vẫn âm ỉ trong lòng nhân dân, hễ có dịp lại bùng lên thành ngọn lửa cách mạng.
2. Thời kỳ 1936-1939:
Năm 1935, đảng bộhuyện Quỳnh Lưu khôi phục đề ra chủ trương nhanh chóng khôi phục và phát triển các cơ sở Đảng. Nhờ đó, vùng Hoàng Mai trước đây chưa có chi bộ Đảng, thời kỳ này đã thành lập được 4 chi bộ:
          Chi bộ Hải Lễ (Quỳnh Lộc - Quỳnh Lập)    
          Chi bộ Phương Cần (Quỳnh Phương)
          Chi bộ Quý Vinh - Thiện Kỵ                        
          Chi bộ Nhị Yên (Quỳnh Trang).
Dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ, giai đoạn 1936-1939, vùng Hoàng Mai, trong đó có nhân dân các làng xã Mai Hùng đã tham gia một số phong trào tiêu biểu như:
Phong trào truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin: Với nhiều hình thức phong phú, hội truyền bá quốc ngữ, hội đọc sách báo, hội bóng đá đã diễn ra sôi nổi, trung tâm là Thiện Kỵ do đồng chí Văn Sỹ Thọ trực tiếp truyền bá. Đây là hình thức để nâng cao dân trí, thông qua các hoạt động đó để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Các làng Thiện Kỵ, Phương Cần, Hữu Lập, Ngọc Huy, Nhị Yên đã diễn ra sôi nổi, giác ngộ được nhiều quần chúng đấu tranh. Làng Kim Lung, dưới hình thức tổ chức cá bạc nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin, thường được tổ chức ở bãi Đưng sau đền Kim Lung, tuy nhiên sau một thời gian bị lộ, bị kẻ thù đàn áp, bắt bớ trong đó có ông Ngô Văn Khoan.
Phong trào lấy chữ ký, thu thập nguyện vọng của nhân dân gửi cho phái bộ mặt trận bình dân Pháp sang điều tra tình hình ở Đông Dương; Cuộc vận động tranh cử lý trưởng hào mục; Phong trào ủng hộ Trung Hoa kháng Nhật.
3. Tiến tới cách mạng tháng Tám 1945
Ngày 28/ 01/1941, sau gần 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Người, Mặt trận Việt Minh được thành lập 19//1941. Tháng 5-1941, Hội nghị lần thứ 8 của Đảng họp, nhận định: Hai kẻ thù ở Đông Dương (Nhật-Pháp) sẽ xâu xé nhau để tranh giành quyền lợi, lúc đó thời cơ cách mạng sẽ tới. Trung ương Đảng đã nêu rõ mâu thuẫn gay gắt giữa phát xít Nhật và thực dân Pháp và chỉ ra: Nhật sẽ diệt Pháp để trừ họa Pháp đánh từ sau lưng, khi quân Đồng Minh vào Đông Dương. Đúng như dự đoán của Đảng, ngày 9-3-1945, phát xít Nhật làm đảo chính, hất cẳng Pháp độc chiếm Đông Dương. Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, đồng thời nhận định: Tình hình đó làm cho khủng hoảng chính trị diễn ra, nạn đói đang hoành hành dữ dội, trong lúc đó chiến tranh thế giới bước vào giai đoạn kết thúc với thắng lợi thuộc về quân Đồng Minh, tình thế thời cơ cách mạng chín mùi. Chỉ thị nêu rõ: “kẻ thù duy nhất lúc này là phát xít Nhật”. Đảng đã phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước, tập trung quần chúng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
Cuối năm 1944 đến đầu năm 1945, hòa chung với khí thế cách mạng cả nước, các làng thuộc xã Mai Hùng khẩn trương chuẩn bị giành chính quyền.
Đầu năm 1945, ở Quỳnh Lưu, Việt Minh bí mật ra đời qua đường dây liên lạc của bà Hồ Thị Son từ Thanh Hoá vào, cán bộ Việt Minh đã mang tài liệu về, tuyên truyền chủ trương Việt Minh, xây dựng lực lượng và tổ chức. Các ông Nguyễn Thạch Kim, Hồ Viết Thắng, Phan Hữu Khiêm sau khi ra tù (9-3-1945) đã liên lạc với Ban Việt Minh tỉnh. Những tháng sau đó, các tổng và các làng đều có tổ chức Việt Minh.
Việt Minh tổng Hoàng Mai do ông Nguyễn Đức Nghi đứng đầu. Tháng 4 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh phân công các ông: Ông Văn Sỹ Thọ, Nguyễn Bá Nghiêm (Thiện Kỵ), Nguyễn Đức Ân, Hồ Khắc Khoa (Phương Cần), cải trang làm người cắt tóc, bán thuốc, học may đến bắt liên lạc với các làng:
Làng Ngọc Huy các ông tham gia Việt Minh:
Ông Lê Khắc Lam, Chủ nhiệm Việt Minh
Ông Nguyễn Đình Đoán, Phó Chủ nhiệm Việt Minh.
Các ông: Hoàng Đức Huần, Lê Khắc Hợp hội viên
Nguyễn Văn Chung, trưởng Hội Nông dân cứu quốc
Nguyễn An Lảu, Đội trưởng Đội bảo an
Nguyễn Thị Khánh, trưởng Hội Phụ nữ cứu quốc
Làng Kim Lung các ông tham gia Việt Minh:
Ông Ngô Khoan, Chủ nhiệm Việt Minh
Ông Ngô Phiêng, trưởng Hội Nông dân cứu quốc
Ông Ngô Trí Tố, Phó Chủ nhiệm Việt Minh, tổ trưởng Thanh niên
Ông  Ngô Trí Huy, Đội trưởng Bảo an (sau này là Chủ tịch lâm thời). Các hội viên ông Bùi Cởn, Trần Thắc.
Bà Trần Thị Tròn, trưởng Hội Phụ nữ cứu quốc
Làng Yên Phú các ông tham gia Việt Minh:
Ông Văn Đức Tường, Chủ nhiệm Việt Minh
Ông Đinh Văn Thám, Phó Chủ nhiệm Việt Minh
Ông Đậu Viết Cừ, Đội trưởng Bảo an (sau này là Chủ tịch lâm thời của làng Yên Phú).
Ông Đậu Đức Khánh, Tổ trưởng Thanh niên
Ông Văn Đức Tình, trưởng Hội Nông dân cứu quốc
Bà Lê Thị Cớn, trưởng Hội Phụ nữ cứu quốc
Thôn Yên Lộc - Yên Trạch các ông tham gia Việt Minh:
Ông Văn Đức Viêm, đội trưởng Bảo an làng Thọ Vinh (Quỳnh Vinh), (sau này là Chủ tịch lâm thời làng Thọ Vinh)
Ông Nguyễn Xuân Kỷ, hội viên
Các ông cùng với cán bộ Việt Minh tổng, huyện tuyên truyền, giải thích mười chính sách của Mặt trận và nói chuyện tình hình thế giới, nhiệm vụ của cách mạng.
Ngày 15/8/1945, phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện, Chính phủ Lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu ra lệnh tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Đưới sự chỉ đạo của Việt Minh 2 làng: Quỳnh Đôi và Văn Thai nổi dậy giành chính quyền mau lẹ. Tối 15/8/1945, Đảng bộ huyện họp ở làng Văn Thai. Sau khi xem xét đã quyết định giành chính quyền ở huyện vào ngày 17-8-1945, lên danh sách  Uỷ ban lâm thời do ông Nguyễn Xuân Mai làm Chủ tịch.
Đúng như dự kiến: 15 giờ ngày 17/8/1945 (phiên chợ Giát 10-7 năm ất Dậu), hàng ngàn người như thác đổ từ các ngã đường kéo về hợp lưu tại Cầu Giát. Đội ngũ chỉnh tề, mang theo cờ đỏ sao vàng và các biểu ngữ: “ủng hộ Việt Minh”, “Việt Nam độc lập muôn năm”... vừa đi vừa hô vang khẩu hiệu, tiến thẳng vào huyện đường. Trước khí thế mạnh mẽ của quần chúng và cũng do làm tốt công tác binh vận từ trước, tri huyện Chữ Ngọc Liễn và các quan chức trong huyện ra chào đón, nộp triện, thẻ bài, sổ sách cho cách mạng. Uỷ ban lâm thời tiếp nhận và ra lệnh hạ cờ 3 sọc của thùc d©n Ph¸p xuống, kéo cờ đỏ sao vàng lên.
Tất cả đứng nghiêm theo lời hô của đồng chí Trần Mai Uỷ viên quân sự, giơ tay chào lá cờ đỏ của Tổ quốc đang tung bay trước gió mùa thu, chứng kiến sự chấm dứt vĩnh viễn hàng ngàn năm chế độ phong kiến, hàng trăm năm chế độ thực dân. Ông Nguyễn Xuân Mai, Chủ tịch lâm thời trịnh trọng tuyên bố: từ nay chính quyền đã thực sự về tay nhân dân, chấm dứt ách thống trị của bè lũ phát xít, tay sai. Người dân mất nước nô lệ, nay đứng lên làm chủ tương lai vận mệnh của mình.
Chính quyền lâm thời gồm 13 người trong đó: đồng chí Nguyễn Xuân Mai, Chủ tịch, đồng chí Phan Hữu Khiêm, Hồ Viết Thắng - Phó Chủ tịch và 10 ủy viên. Tiếp theo, chính quyền lâm thời công bố lệnh tử hình những tên có nợ máu với nhân dân.
Ở trung tâm Hoàng Mai (tại sân vận động làng Thiện Kỵ), tử hình Đội Mạo nhằm tăng thêm uy thế cách mạng, cổ vũ những nơi chưa giành được chính quyền.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 diễn ra ở các làng với hình thức, Việt Minh tổ chức cho dân mang theo cờ đỏ, sao vàng, đi trước quần chúng là đội tự vệ (bảo an) tay cầm đao, kiếm kéo đến đình làng buộc lý trưởng phải tự tay mình giao nạp sổ sách, mục triện (con dấu) cho chính quyền:
Ngày 17/8/1945, các làng giành được chính quyền:
Lý trưởng làng Ngọc Huy: ông Nguyễn Đình Dớm
Lý trưởng làng Kim Lung: ông Trần Trự
Lý trưởng làng Yên Phú: ông Văn Đức Chuyển.
Uỷ ban CM lâm thời của các làng:
Làng Yên Phú: ông Đậu Viết Cừ.
Làng Ngọc Huy: ông Nguyễn An Lảu
Làng Kim Lung: ông Ngô Trí Huy
Làng Thọ Vinh ( Yên lộc - Yên Trạch) ông Văn Đức Viêm ( ở thôn 13)
Trong những ngày tháng Tám lịch sử, thực sự ngày hội lớn của nhân dân các làng và cả tổng Hoàng Mai, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, nhân dân đã vùng lên xoá bỏ xiềng xích của phát xít - thực dân và bè lũ tay sai phong kiến, trút bỏ nỗi nhục mất nước, cuộc đời nô lệ, đứng lên làm chủ vận mệnh quê hương, đất nước.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Tầng lớp thanh niên tân tiến của các làng được giác ngộ cách mạng. Họ tiếp thu và thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, biết dựa vào dân; tổ chức cho quần chúng đấu tranh, tạo nên sức mạnh cho cách mạng. Đồng thời, nắm bắt thời cơ, kêu gọi nhân dân nổi dậy giành chính quyền thắng lợi. Đó là niềm tự hào xứng đáng của cán bộ đảng viên và nhân dân các làng, xã Mai Hùng.
Chương III
DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CÁC CHI BỘ, NHÂN DÂN CÁC LÀNG ĐÓNG GÓP VÀO SỰ NGHIỆP KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP THẮNG LỢI (1945 -1954).
Ngày 2/9/1945, thay mặt quốc dân đồng bào, tại vườn hoa Ba Đình - Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á.
Chính quyền làng, xã, tổng được thiết lập. Cơ quan trụ sở của Ủy ban cách mạng lâm thời tổng Hoàng Mai đóng ở đồn Tây, do ông Nguyễn Đức Nghi (Phương Cần) làm Chủ tịch, được duy trì đến ngày 6/1/1946.
“Giành chính quyền đã là khó, giữ chính quyền càng khó hơn”. Cách mạng thành công, thù trong, giặc ngoài mưu toan bóp chết chính quyền cách mạng đang còn trong “trứng nước”.
Trong nước, nạn đói năm 1945 chưa qua, làm hao tổn khá nhiều nhân lực, nhân dân các làng, xã Mai Hùng không bị chết đói so với các làng, xã xung quanh, nhưng sức dân nhìn chung cạn kiệt: Sản xuất bị đình đốn, ruộng đất phụ thuộc thiên nhiên, thóc giống dùng cho cứu đói đã hết.
Để ổn định tình hình khó khăn chung của đất nước, xây dựng chế độ cộng hoà, ngay sau ngày đọc Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945, trong phiên họp Chính phủ lâm thời đầu tiên ngày 3/9/1945, Chính phủ đã đề ra 6 công việc cần kíp.
- Phát động ngay chiến dịch tăng gia sản xuất để cứu đói.
- Tổ chức tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu, thực hiện quyền dân chủ  nhân dân.
- Mở ngay một phong trào chống nạn mù chữ.
- Mở phong trào giáo dục ý thức “cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư” để bài trừ thói hư tật xấu của chế độ thực dân để lại.
- Bỏ ngay thuế chợ, thuế thân, thuế đò, tuyệt đối cấm hút thuốc phiện.
- Tuyên bố tự do, tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết ()
Những việc làm sau khi giành chính quyền.
1. Nhiệm vụ tập trung cần kíp, lúc này là chống 3 thứ giặc:
Chống giặc đói
Chống giặc dốt
Chống giặc ngoại xâm
        Muốn giải quyết được 3 việc trên, yêu cầu cấp thiết là phải xây dựng củng cố chính quyền. Chính quyền lâm thời và mặt trận Việt Minh các làng đẩy mạnh các hoạt động: vận động mọi tầng lớp tham gia các đoàn thể cứu quốc, đoàn thanh niên cứu quốc đã được hình thành từ thời kỳ tiền khởi nghĩa, nay hoạt động sôi nổi thu hút nhiều hội viên thanh niên nam, nữ gia nhập các đoàn thể. Đoàn tập hợp thiếu niên nhi đồng, lập đội Nhi đồng cứu quốc. Hội phụ nữ cứu quốc, sau này là Hội Liên hiệp phụ nữ được thành lập thu hút đông đảo các bà, các chị tham gia hoạt động. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà, phụ nữ được sinh hoạt bình đẳng như nam giới, bảo đảm được quyền lợi, nghĩa vụ của chị em. Các cụ phụ lão cũng không thua kém con cháu, tích cực tham gia mọi việc.
Sau cách mạng tháng Tam thành công, các làng xã Mai Hùng được hình thành: hai thôn Yên Lộc - Yên Trạch thuộc làng Thọ Vinh. Chủ tịch UBHC lâm thời ông Văn Đức Viêm (8/1945 - 2/1946). Sau đó là xã Vinh Hoa - Quỳnh Mai cho đến năm 1954. Trong những năm 1946-1948, các đồng chí Văn Đức Huế, Văn Đức Khuông, Quách Hữu Tịch...,  làng Yên Lộc - Yên Trạch tham gia chi bộ Đảng xã Vinh Hoa, (sau này hợp với Quỳnh Trang - Quỳnh Dị được gọi là xã Quỳnh Mai). Đảng viên các làng Yên Lộc - Yên Trạch sinh hoạt trong Chi bộ Đảng xã Quỳnh Mai gồm 15 đồng chí.
Làng Yên Phú, làng Kim Lung và làng Ngọc Huy thành lập xã Văn Hiến. Chủ tịch UBHC xã Văn Hiến là các ông Ngô Phiêng (1946-1947), Bùi Cởn (1947-1948). Ngày 18/5/1946, tại nhà ông Ngô Văn Phong tr­ëng téc họ Ngô Văn, Chi bộ đảng đầu tiên thành lập mang tên Chi bộ Phan Đăng Lưu. Ban đầu có 5 đảng viên: Đồng chí Ngô Phiêng, Ngô Trí Tố, Ngô Khoan, Ngô Hai và Ngô Tân, sau đó kết nạp thêm các đồng chí Văn Đức Tường, Nguyễn Ngọc Chung, Đậu Viết Cừ (đây là Chi bộ đảng của xã Văn Hiến). Năm 1948, xã Văn Hiến sát nhập với Phương Cần thµnh xã Văn Phương. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, đảng viên các làng Yên Phú - Kim Lung - Ngọc Huy sinh hoạt trong Chi bộ đảng xã Văn Hiến và xã Văn Phương tổng cộng 74 đồng chí. Trong đó hầu hết các đồng chí đảng viên thời kỳ đó đều hoạt động liên tục.
Cứu đói, chống đói:
Ngày 28/9/1945, Hồ Chủ tịch kêu gọi “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy Tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước và xin được thực hành trước. Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ăn 3 bữa, đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo.
Như vậy người nghèo sẽ có bữa cháo để chờ mùa lúa sau, khỏi đến nỗi chết đói. Tôi tin chắc rằng đồng bào ai cũng sẵn lòng cứu khổ, cứu nạn mà hăng hái hưởng ứng lời đề nghị nói trên”.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tất thảy mỗi người dân các làng, xã Mai Hùng cùng “đồng tâm cứu đói, mười ngày nhịn ăn một bữa”. Nơi đây, vùng đất Nam Thanh - Bắc Nghệ, số người tha phương cầu thực đều dừng lại. Hội phụ nữ chủ trì, hàng ngày theo quy định, chị em đến từng nhà thu gom “hũ gạo cứu đói” sau khi thu gom tổ chức nấu cơm, cháo phân phát cho những người bị đói và những người qua đường. Nhịn ăn để cứu đói là phương pháp bất đắc dĩ nhưng lại vô cùng có ý nghĩa mang tính nhân văn.
Cùng với cứu đói là việc đẩy mạnh tăng gia sản xuất. Uỷ ban cách mạng Lâm thời đã ra lệnh bãi bỏ các khoản nợ cũ và những thứ thuế vô lý do chế độ cũ để lại, chia ruộng đất công cho người cày. Cùng với các đoàn thể đẩy mạnh tăng gia sản xuất, trước mắt trồng những cây ngắn ngày như khoai lang, rau, bầu, bí, ngô đậu. Nhiều sáng kiến mới trong sản xuất được áp dụng như trồng khoai lang ụ, trồng bí leo sàn đạt năng suất cao cả lá, củ và quả. Phong trào khai hoang phục hoá phát triển mạnh mẽ. Các bờ mương, bụi rậm trên các sườn núi lâu nay bỏ hoang nay có bàn tay sức lao động của con người đã đâm chồi nẩy lộc: khoai sắn, đậu ngô nhờ sự chỉ đạo của chính quyền và các đoàn thể, chỉ hơn 4 tháng sau khi giành được chính quyền nạn đói cơ bản được đẩy lùi.
Diệt giặc dốt:
Không biết chữ thì không thể nâng cao dân trí. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Giặc đói, giặc dốt là đồng minh của giặc ngoại xâm”. Nhân dân các làng xã Mai Hùng nghe theo lời kêu gọi của Chính phủ và Hồ Chủ tịch tham gia phong trào xoá nạn mù chữ với phương châm: “người biết chữ dạy người không biết chữ”. Chính quyền đã thành lập Ban bình dân học vụ gồm các ông:
Trưởng Ban bình dân học vụ xã Văn Hiến năm 1946 là ông Ngô Trí Tố. Mỗi xóm có một đoàn làm nhiệm vụ xóa nạn mù chữ bao gồm: Việt Minh, thanh niên, phụ nữ . Các lớp học được mở ra, từ 5 đến 7 gia đình lập một lớp học. Già, trẻ, gái, trai, cha, mẹ, con cháu cùng ngồi học chung một lớp. Cuối mỗi khoá có hình thøc xóa nạn mù chữ bằng cách dăng dây ngáng qua đường, nếu biết đọc thì được đi qua, chưa biết phải học cho biết đọc để được qua đường, việc làm tuy đơn giản những đưa lại hiệu quả thiết thực cao buộc mọi người ai cũng phải cố gắng học tập.
Làng Kim Lung mời thầy giáo từ Quỳnh Đôi về dạy chữ cho lớp trẻ ở đình làng.
Năm 1947, xã Văn Hiến được công nhận là xã có tỷ lệ người biết chữ cao so với tỷ lệ dân số.
Hệ thống trường học, những năm 1949, 1950 trường cấp 1 được thành lập ở xã Văn Phương, văn phòng ở làng Phương Cần, có 4 lớp.
Trong đó một lớp mở đình làng Kim Lung. Từ đó đến cuối cuộc kháng chiến đã dạy được hàng trăm em học sinh học xong chương trình cấp 1 của các làng Ngọc Huy, Kim Lung, Yên Phú.
Ban và các tiểu ban cùng với các đoàn thể cứu quốc đã vận động các thầy, các em học sinh tích cực tham gia phong trào học văn hoá, khẩu hiệu, biểu ngữ được chăng lên khắp nơi:  Ở công sở, nhà trường, đình miếu; mỗi gia đình là một lớp học, mỗi người biết chữ là một giáo viên; mỗi một công dân là một học sinh, tiền tuyến diệt xâm lăng, hậu phương trừ giặc dốt. Nhiều câu ca dao được sáng tác động viên cho phong trào:
          "Lấy chồng biết chữ là tiên
          Lấy chồng mù chữ là duyên lỡ làng"
Lớp học được mở ra khắp nơi, đâu đâu cũng có lớp học, đêm đêm tiếng đánh vần ê-a lại vang lên ở các xóm.
"O tròn như qủa trứng gà
Ô thì đội nón, ơ thì mang râu"
Lớp học có lúc chỉ 3 đến 5 người, không có bảng thì dùng ván, sân, bờ tường, thiếu phấn, thiếu bút dùng gạch non, than củi. Không đèn, dùng nhựa, dầu thực vật làm ánh sáng.
Với quyết tâm cao của chính quyền, các đoàn thể và nhân dân, được sự tận tuỵ của hàng trăm cán bộ, giáo viên, học sinh trong đó có sự cố gắng lớn lao của các ông trong Ban bình dân. Chỉ trong một thời gian ngắn, hơn 60% số dân đã biết đọc, biết viết.
Tham gia các quỹ ủng hộ nước nhà.
Sau khi giành được độc lập, nền tài chính nước nhà “trống rỗng”, muốn xây dựng chính quyền vững mạnh, Nhà nước phải có tài chính, trong lúc đó âm mưu thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta chỉ còn thời gian ngày một ngày hai.
Ngày 23/9/1945, được sự che chở của lực lượng đồng minh (quân đội Anh) quân Pháp nổ súng tấn công Nam Bộ với dã tâm cướp nước ta một lần nữa. Tổ quốc lâm nguy, nhân dân các làng, xã Mai Hùng với đủ các thành phần không kể giàu, nghèo đã hăng hái ủng hộ. Nhiều bà, nhiều chị đã đưa những kỷ vật quý bằng vàng, bạc để ủng hộ Nhà nước, ai không có vàng thì nồi đồng, lư hương, cäc s¸p b»ng ®ång là những kỷ vật thiêng liêng thờ cúng gia tiên mà họ cũng không tiếc, tất cả vì độc lập, tự do của dân tộc.
Hưởng ứng “tuần lễ vàng” chị em các thôn, làng quê hương đóng góp nhiều vòng bạc và các đồ trang sức bằng bạc. Tính ra nhân dân toàn xã đã đóng góp được gần 10 kg vàng, bạc.
          Một số người ủng hộ đồ trang sức bằng vàng như bà Hồ Thị Lợi (tức bà Vơn, làng Kim Lung).
Bài ca kêu gọi phụ nữ ủng hộ vàng bạc cho quốc gia được lưu truyền, trong đó có câu:
“Đeo hoa chỉ tổ nặng tai
Đeo vòng nặng cổ hỡi ai có vàng
Làm dân một nước vẻ vang
Đem vàng giúp nước vinh quang nào tày”
Năm 1947, phong trào “hũ gạo nuôi quân” được phát động nhằm lấy gạo chu cấp cho bộ đội. Mỗi gia đình trong xã Văn Hiến và các thôn Yên Lộc, Yên Trạch đều có một hũ gạo "Tiết kiệm". Mỗi tháng một lần góp cho người phụ trách gọi là “ông tổng động viên”.
Tính ra mỗi gia đình tiết kiệm được hàng chục cân gạo. Cả xã có tới hàng chục tạ, kịp thời gửi cho bộ đội địa phương huyện và tỉnh.
          Các phong trào tuần lễ kim khí (1947), công trái quốc gia, công phiếu kháng chiến, thuế nông nghiệp, hiến điền, các thôn, làng đều lập được thành tích khá.
Làng Kim Lung ủng hộ: một bộ bù lu đồng trong tuần lễ kim khí. Nhiều gia đình mua công trái cao như ông Nguyễn Văn Duy, ông Quách Hữu Tịch (thôn Yên Trạch) ông Bùi Văn Hùng, Bùi Văn Trờng (thôn Yên Lộc), ông Đinh Văn Tùng (làng Yên Phú), hiến 2 mẫu ruộng, ông Nguyễn Đức Thµi ở chòm Quyết Thắng (Kim Lung) có con gái lúc gả con đã thách cưới nhà trai một quả mìn để đóng góp cho lực lượng vũ trang, được UBHC tỉnh tặng bằng khen và ảnh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Năm 1952, nhiều gia đình đóng thuế khả năng từ 5-7 tạ thóc. Các làng lập quỹ kháng chiến (còn gọi là quỹ nghĩa thương). Họ trích ruộng sản xuất đóng vào quỹ, mỗi làng 3 tấn thóc. Các ông, bà có công đóng góp (c¶ vïng Hoµng Mai) được trao phần thưởng ở đình làng Quý Vinh.
Từ khi giành được chính quyền 19/8/1945, đến hết tháng 12/1946, nhân dân các làng, xã Mai Hùng dưới sự chỉ đạo của chính quyền và vận động năng nổ của các tổ chức, chúng ta đã làm được một số việc đáng tự hào. Nạn đói được ngăn chặn, giặc dốt đang được đẩy lùi, góp sức xây dựng công, quỹ cho nền độc lập. Chính quyền, đoàn thể có thêm kinh nghiệm để vượt qua mọi thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
2. Củng cố tổ chức, xây dựng chính quyền, đoàn thể cùng với nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược:
Để xây dựng chính quyền thực sự là của dân, do dân và vì dân, Hồ Chủ tịch đã ban hành Sắc lệnh, tổ chức Tổng tuyển cử trong cả nước, bầu ra Quốc hội.
Ngày 6/1/1946, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, cử tri từ 18 tuổi trở lên không phân biệt nam, nữ được thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của người công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Họ tự tay cầm lá phiếu bầu người đại biểu mà mình tín nhiệm vào cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội.
Nhân dân các làng, xã Mai Hùng náo nức chào đón ngày lễ trọng đại của đất nước. Các xóm, nơi có địa điểm bỏ phiếu được thực hiện trang nghiêm, cờ, biểu ngữ, danh sách ứng cử viên được niêm yết. Các cụ còn nhớ danh sách ứng cử viên gồm 13 vị được bầu.
1. Võ Nguyên Giáp          
 2. Hoàng Ngọc Ân (Hoàng Văn Hoan - Quỳnh Đôi)
3. Chu Văn Biên                
4. Nguyễn Côn
5. Nguyễn Đình Tháp     
6. Trần Mai (em Trần Thuý Roanh ở Trịnh Môn)
7. Lê Đình Vỹ                
8. Nguyễn Duy Trinh
9. Lê Văn Lương            
 10. Đặng Thai Mai
11. Phan Hữu Khiêm - (Q.Đôi)
12. Tôn Thị Quế
13. Sầm Văn Kim
Cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên có số lượng ứng cử viên nhiều, bởi vậy để tập trung, Ban bầu cử phải vận động để cử tri tập trung lá phiếu cho những người xứng đáng đại diện cho quyền lợi của đa số nhân dân. Ban bầu cử giành nhiều thời gian tuyên truyền vận động, hội họp, nói rõ mục đích, nguyên tắc bầu cử.  Nhân dân các thôn, xóm thảo luận sôi nổi, bàn luận bầu những đại biểu xứng đáng.
Cuộc bầu cử diễn ra như một ngày hội, đúng giờ quy định, các đoàn thể, các cử tri đã có mặt đông đủ làm nghi thức, sau đó tiến hành ghi danh sách cử tri, phát phiếu bầu.
Nhiều cụ già hoặc người bị tàn tật, mặc dù có thùng phiếu phụ cơ động đưa đến nơi nhưng họ vẫn bảo con cháu dìu dắt đến địa điểm để tự tay cầm lá phiếu bỏ vào thùng phiếu. Kết quả gần 100% cử tri đi bỏ phiếu, bầu đúng người, xứng đáng đại diện cho nguyện vọng và ý chí của nhân dân. Các Đại biểu của Nghệ An trúng cử với số phiếu cao, sau này là những Bộ trưởng, Phó Thủ tướng trong Chính phủ của Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Tháng 2 - 1946, để chào mừng thắng lợi đầu tiên của cuộc tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, tổng Hoàng Mai đã tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại sân vận động của làng Thiện Kỵ. Nhân dân các làng: Ngọc Huy, Kim Lung, Yên Phú, Yên Lộc, Yên Trạch cùng với nhân dân cả tổng, nô nức tham gia biểu dương lực lượng với sức mạnh đoàn kết toàn dân. Trong giờ phút trang nghiêm chào cờ, quốc ca, mặc niệm các anh hùng liệt sĩ đã xả thân vì Tổ quốc thân yêu, 3 phát súng nổ rền càng tăng thêm tính uy nghi của buổi lễ. Sau diễn văn khai mạc, giữa một rừng cờ, biểu ngữ xuất hiện một người phụ nữ với tư trang đĩnh đạc bước lên lễ đài trong tiếng vỗ tay vang dội của những người tham gia biểu tình. Bà Tôn Thị Quế cùng với ông Mai Viết Huyền trong đoàn Đại biểu Quốc hội về dự. Bà thay mặt cho đoàn lên diễn thuyết, lần đầu tiên một người phụ nữ xuất hiện trước công chúng nói lên sự bình đẳng giữa nam và nữ. Bà nói về ý nghĩa của cuộc cách mạng tháng Tám đã lật nhào chế độ thực dân phong kiến, đưa lại quyền làm chủ cho nhân dân lao động và thắng lợi của cuộc bầu cử là thắng lợi của ý chí nguyện vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam đó là: Thống nhất Tổ quốc, Tổ quốc được độc lập - tự do, chúng ta phải đoàn kết, đại đoàn kết để giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng chế độ mới. Kết thúc cuộc mít tinh các câu khẩu hiệu được hô lên vang dội:
Việt Nam độc lập  muôn năm             
Muôn năm, muôn năm, muôn năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh, muôn năm
Muôn năm, muôn năm, muôn năm
Sau bầu cử Quốc hội là bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, cấp tổng được giải thể, các làng được hợp nhất, chi bộ được thành lập. Từ đầu năm 1948 đến năm 1954 gọi là uỷ ban kháng chiến hành chính. Ủy ban được kiện toàn, các đoàn thể cứu quốc được tập hợp trong mặt trận Việt Minh, làm hậu thuẫn cho chế độ mới.
Mặc dù thế lực chính trị của giai cấp thống trị cũ đã bị đập tan, nhưng ý đồ thực dân Pháp nhằm chiếm lại nước ta đang trở thành hiện thực thì các đoàn thể phải quân sự hoá, đặc biệt là lực lượng thanh niên cứu quốc, tự vệ của các thôn, xóm hình thành, được trang bị vũ khí và được tập luyện thường xuyên. Nhờ xây dựng lực lượng tự vệ mà các xóm, làng tình hình trật tự, an ninh được giữ vững.
Xây dựng chính quyền, mặt trận và các đoàn thể, để không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hàng năm chi bộ tiếp tục bồi dưỡng và kết nạp được nhiều đảng viên .
Năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các đồng chí Trung bộ, trong thư có đoạn: “Trong lúc dân tộc đang ở trên ngã tư đường, chết hay sống, mất hay còn, mỗi một đồng chí và cả đoàn thể() phải đem tất cả tinh thần và lực lượng ra để đưa toàn dân quay về một hướng, nhằm vào mục đích: đánh đuổi thực dân Pháp, làm cho nước được thống nhất và độc lập dân tộc().
Học tập thư Bác, các chi bộ đảng, nhân dân các xã càng được nâng cao ý thức, sẵn sàng chiến đấu, tận tâm thực hiện nhiệm vụ được giao phó.
II. Xây dựng hậu phương, chi viện cho các chiến trường, hoàn thành nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến năm chống thực dân Pháp
“Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm chiếm nước ta một  lần nữa.
Không! chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Lời kêu gọi ngày 19/12/1946 của Hồ Chủ tịch đã mở đầu cho cuộc kháng chiến toàn quốc, lời kêu gọi đó đã thấm vào máu thịt của mỗi người dân Việt Nam. Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, vùng Hoàng Mai nằm trong vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, hậu phương lớn của cả nước và của các chiến trường Đông Dương. Thực dân Pháp tìm mọi cách phá hoại hậu phương, chúng cho máy bay ném bom các làng xã ven đường quốc lộ 1A, cho tàu chiến uy hiếp ven biển, đường sông. Ngoài ra chúng còn thả biệt kích xuống vùng rừng núi phía Tây, khuyến khích các tổ chức phản động đội lốt tôn giáo hoạt động, chống phá và sẵn sàng làm nội ứng khi chúng đổ bộ.
1. Những việc làm trong 9 năm kháng chiến:
Sau ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), các làng, xã Mai Hùng đã hình thành mỗi thôn, xóm một trung đội dân quân du kích. Đây là lực lượng chủ công để bảo vệ xây dựng chế độ và tham gia vào công việc “Tiêu thổ để kháng chiến”. Ở Nghệ An trước hết là tiêu thổ triệt hạ thành phố Vinh, san phẳng bình địa không cho thực dân Pháp có điều kiện chiếm đóng. Hoàng Mai có ga tàu, quốc lộ 1A, cửa biển... là mục tiêu đánh phá của địch. Vùng Hoàng Mai tổ chức Ban chỉ huy tiêu thổ kháng chiến do ông Nguyễn Ngọc Dân, Nguyễn Duy Du, Phan Ngọc Yên (các ông này trong Việt Minh của tổng Hoàng Mai) chỉ huy. Mỗi xã có một uỷ viên phụ trách. Nhiệm vụ là phá đường tàu, bốc thanh ray, toà vẹt vận chuyển về rào cửa lạch Cờn, cắm cọc ở bãi trống. Sau đó ban chỉ huy cử người đi học các mô hình rào làng kháng chiến theo mô hình làng Cự Nẫm (Quảng Bình).
Đầu năm 1947, thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, nhân dân các làng thuộc xã Văn Hiến, Vinh Hoa (tổng Hoàng Mai cũ) đã cử nhiều dân quân đi tham gia “tiêu thổ” các công trình đề phòng giặc đánh chiếm, cầu Hoàng Mai, đồn Ngọc huy, đồn Kiểm Lâm, đường xe lửa, cầu Tây, ga Hoàng Mai và các công trình ở huyện lỵ Cầu Giát và thành phố Vinh. Đoạn đường quốc lộ 1A qua phạm vi xã cũng được phá hoại thành “hố ngang hố dọc, chữ I, chữ T” để cản giặc.
Dân quân các làng tham gia bố phòng ở Cửa lạch Cờn. Họ dùng ray sắt đường tàu cắm ở cửa sông, tạo thành những bãi cọc ngầm lợi hại chống tàu chiến giặc.
Để phòng địch ném bom, bắn phá, đồng bào được hướng dẫn đào hầm trú ẩn quanh nhà. (Kiểu hầm lúc này là hầm tròn và hầm dài sâu khoảng 1m - 1,5m rộng 0,5 - 0,7m), hào giao thông được đào từ làng ra cánh đồng dài 1km, người và trâu bò đi lại dễ dàng. Đắp hầm chữ U nổi để chiến đấu, rào làng kháng chiến xung quanh có cổng, ngày mở, đêm đóng
Dân quân du kích chia thành các tổ: (tuần tra, canh gác, quân báo, tản cư, tổ cứu thương). Các tổ dân quân gồm cả nam và nữ (gọi là nữ quân),  nữ quân thường hoạt động trong các tổ cứu thương, liên lạc, quân báo.
Các tổ hoạt động thường xuyên, thực hành các phương án và tình huống khi có địch. Họ đào đắp các công sự chiến đấu tại các trọng điểm, ngã ba vào làng như: ngã ba làng Kim Lung, Yên Phú, Yên Trạch.
Đêm đêm, dân quân tuần tra canh gác ở cửa lạch Cờn, bãi trò (nay thuộc Quỳnh Liên) và các điểm xung yếu ven sông Mai, kênh nhà Lê. Họ lập chòi canh gác trên điểm cao (động Kiêu, dọc bờ sông), các đường giao thông chính qua địa bàn xã, dân quân lập phương án bố trí chông mìn, lựu đạn và vị trí các ổ chiến đấu khi địch đổ bộ.
Lực lượng dân quân, du kích luyện tập thường xuyên (có cố vấn quân sự là các cựu lính Nhật hướng dẫn) với các động tác đi đều, lăn lê, bò toài, tập hành quân, thao tác bắn súng, ném lựu đạn, đặt mìn, đâm, chém bằng kiếm, đại đao. Tập duyệt các phương án: Bố phòng, đánh địch đổ quân vào địa bàn, diệt chốt, hướng dẫn dân sơ tán.
Nhằm tăng cường lực lượng dân quân tại chỗ để ứng phó kịp thời lúc địch đổ bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh chỉ rõ: Ngoài lực lượng tự vệ chiến đấu, nay huy động thanh niên từ 18 tuổi (nam đến 45, nữ đến 35 tuổi), đều gia nhập lực lượng dân quân, mỗi xóm có một trung đội, dưới sự chỉ huy của Ban quân sự xã.
Năm 1947, cơ quan quân sự huyện được thành lập (Huyện đội), có bộ đội đóng trên địa bàn, công tác quân sự ở các làng, xã vùng Bắc Hoàng Mai được huấn luyện bài bản hơn, kết hợp với bộ đội, dân quân du kích tăng cường phòng gian bảo mật, được phân công cắt cử chu đáo: một tiểu đội dân quân du kích được phân công trực chiến ngày, đêm ở cầu Đò Cái sẵn sàng chiến đấu.
2. Chủ động phòng thủ chiến đấu bảo vệ quê hương:
Sau chiến thắng Thu - Đông Việt Bắc năm 1947, thực dân Pháp buộc phải chuyển hướng chiến tranh từ: “Đánh nhanh, thắng nhanh” sang đánh lâu dài. Để hỗ trợ cho chiến trường Việt Bắc, địch chủ trương đánh mạnh vào vùng đồng bằng để làm chủ vùng đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời mở các cuộc hành quân đánh phá, quấy rối hậu phương của ta (chủ yếu là vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh), hòng ngăn chặn sự chi viện sức người, sức của cho các chiến trường.
Các làng, xã Mai Hùng góp phần cùng quân và dân Quỳnh Lưu đánh thắng trận càn ngày 5 tháng 10 năm 1949
Nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não của huyện lúc đó đang đóng ở Quỳnh Đôi. Phá hoại sản xuất, quấy rối hậu phương, khuyếch trương thanh thế của Chính phủ Bảo Đại.
5 giờ ngày 5/10/1949, lực lượng địch có hơn 1.000 tên (500 lính Âu Phi, 500 lính nguỵ) cùng bọn Việt gian chỉ điểm, dẫn đường. Chúng dùng năm chiếc tàu thuỷ và bốn ca nô, năm máy bay yểm trợ (trong đó có một thủy phi cơ) đổ quân vào ba cửa lạch: lạch Cờn, lạch Thơi, lạch Quèn.
Lúc 4 giờ sáng, nghe tiếng súng nổ từ phía lạch Cờn, 5 giờ Huyện đội đã phát lệnh cho hai trung đội đi kiểm tra tình hình và sẵn sàng chiến đấu theo hai hướng chính.
Các lực lượng, các cơ sở bố phòng, các làng kháng chiến được xây dựng từ trước đã phát huy tác dụng lớn. Lực lượng vũ trang, dân quân du kích đã dựa vào những làng kháng chiến để tạo ra những điểm chốt chặn, tiêu diệt địch và không cho chúng đánh loang ra, đồng thời tìm cách phản công địch.
Hướng lạch Cờn, lợi dụng lúc trời chưa sáng hẳn, khoảng 500 tên đổ bộ lên bãi cát Quỳnh Liên, tiến vào Văn Phương, nhưng bị dân quân xã Văn Phương phát hiện, nổ súng đánh chặn, buộc chúng phải đi qua làng Ngọc Huy, làng Kim Lung (Mai Hùng), tại đây lực lượng dân quân đã chiến đấu dưới sự chỉ huy của đồng chí xã đội phó Ngô Trí Ba, bố trí giật mìn nhưng không nổ. Chúng lùng sục vào nhà dân, lấy quần áo, mang tơi , đội nón, cải trang:
     “Trên thì có tàu bay yểm hộ
                    Dưới quân tây lố nhố theo sau
                    Vào Kim Lung bóc lột áo quần nâu
                    Đội nón lá, mang tơi cùng gánh củi
                    Cải trang lại giả làm bộ đội"
          Đến làng Kim Lung, bị ta chặn đánh (chỉ huy chiến đấu là ông Nguyễn An Phợng).
Sau khi bị dân quân làng Kim Lung ném lựu đạn làm một số tên bị thương, địch bắt  theo 4 người dân(), chúng quay lại phá cầu Ngọc Huy. Sau đó chia làm 2 toán: một toán đi dọc theo chân động Kiêu, một toán đi giữa đồng lên đường quốc lộ 1A. Cùng lúc đó, trung đội do Nguyễn Huệ hành quân ra Hoàng Mai, đến cầu Trốc Voi thì gặp địch liền triển khai chiến đấu. Dưới sự chỉ huy của trung đội trưởng Nguyễn Huệ, quân ta đã dựa vào bờ mương, ruộng lúa, áp sát đánh thẳng vào đội hình địch. TrËn chiÕn diÔn ra ¸c liÖt, hai bªn ®¸nh gi¸p l¸ cµ, mét ®èi mét, ®èi ba, ®èi bèn. QuÇn lén víi nhau h¬n mét giê, ta tiªu diÖt 13 tªn, phÝa ta hy sinh 8 chiÕn sü (ngµy nay nghÜa trang cña huyÖn ®Æt t¹i Nói Tïng (Quúnh Xu©n), mang ý nghÜa trËn ®¸nh më ®Çu t¹i quª h­¬ng ngµy 5/10/1949). Do lùc l­îng qu¸ chªnh lÖch, trung ®éi ph©n t¸n vµo c¸c lµng, x· phèi hîp víi d©n qu©n du kÝch tiÕp tôc chiÕn ®Êu.
Tại Quỳnh Mai địch không vào, ngay sáng ngày 6/10/1949, đồng chí Nguyễn Ngọc Yên, Bí thư Huyện uỷ đã triệu tập một cuộc họp khẩn cấp, thành phần là những cốt cán của các xã vùng Hoàng Mai họp tại Quỳnh Vinh. Cuộc họp nhận định tình hình địch tiến quân và nhanh chóng tổ chức lực lượng tiếp ứng cho phía nam. Một đại đội cảm tử quân, bao gồm những dân quân dũng cảm biết về quân sự, tình nguyện xung phong đánh địch. Đại đội do đồng chí Võ Đăng Lế chỉ huy chi viện cho phía Nam, nhưng địch đã  hành quân càn quyét rồi rút ra biển.
Qua 3 ngày chiến đấu các làng, xã Mai Hùng góp phần cùng cả huyện tiêu diệt 113 tên địch.
Những năm sau, vùng Bắc Quỳnh Lưu, phía Tây thị trấn Hoàng Mai giáp giới với huyện Tĩnh Gia (Thanh Hoá) là những nơi có núi cao, rừng rậm, dân cư thưa thớt, có giáo dân. Một số phần tử đội lốt tôn giáo lén lút hoạt động ở Quang Sơn (Tĩnh Gia), Yên Hoà (Quỳnh Vinh),  Trang Họ (Quỳnh Trang) do các tên Trần Đình Phúc, Trần Đình Hiên.. cầm đầu chỉ huy, chỉ điểm. Với địa hình đa dạng và cơ sở đó, 18 giờ ngày 15/10/1953, thực dân Pháp đã tiến hành cho máy bay thả dù, tung gián điệp, biệt kích xuống đồng Lách xã Quỳnh Mai(). (Đồng Lách hiện nay thuộc bản Lách xã Tân Trường, huyện Tĩnh Gia, Thanh Hoá), nơi đây xung quanh là núi cao bao bọc, có thung lũng bằng phẳng rộng hơn 45 ha, rất thuận tiện cho địch đổ quân bằng đường không.
Được tin báo, dân quân du kích Quỳnh Mai đã tổ chức bao vây truy lùng và kịp thời báo với cơ quan quân sự. Nhận được tin cấp báo, huyện đội đã cử đồng chí Nguyễn Tường trong Ban chỉ huy quân sự huyện trực tiếp chỉ huy đơn vị chủ lực của huyện ra kết hợp với dân quân du kích Quỳnh Mai, Văn Phương để đánh địch. Các đồng chí Nguyễn Huấn, Bí thư, Nguyễn Hồng, Chủ tịch; Nguyễn Bá Mậu, Mai Trường Khánh, Phó chủ tịch cùng Ban chỉ huy xã đội Quỳnh Mai trực tiếp chỉ huy. Sự kết hợp giữa bộ đội địa phương huyện và dân quân du kích Quỳnh Mai, Văn Phương đã có trận hiệp đồng tác chiến tuyệt đẹp. Ngay từ phút đầu, chúng ta đã nổ súng tiêu diệt tên lính trinh sát và tổ chức vây bắt. Toán địch ba tên còn lại chạy về Bến Bần (cạnh hồ Vực Mấu), bị ông Lê Đình Ý (Quỳnh Trang) chỉ huy bắt gọn. Sau gần nửa tháng truy lùng, chúng ta đã bắt sống 17 tên, một tên bị bắn chết, một tên chạy vào Diễn Hạnh huyện Diễn Châu cũng bị tóm gọn. Phía ta hy sinh ba chiến sĩ: một bộ đội địa phương, một dân quân du kích Quỳnh Vinh, Vi Văn Lá người dân tộc Mãn Thanh (Tân Thắng). Một số người chỉ huy và dân quân dũng cảm được cấp trên khen ngợi như các ông Lê Đình Ý, Lê Sỹ Thái, (Quỳnh Trang), Lê Đức Đượm, Quách Hữu Kiệp (Mai Hùng).
Tổ chức, bảo vệ xóm làng, bảo vệ sản xuất là nhiệm vụ thường xuyên liên tục trong suốt 9 năm kháng chiến, được cấp uỷ, chính quyền và các đoàn thể quan tâm. Thực dân Pháp không đổ quân quấy rối đất liền được, chúng lại cho tàu chiến, ca nô phong toả mặt biển, dùng những toán nhỏ tập kích đổ bộ bằng đường biển, đường không. Đặc biệt, khi quân và dân ta chuẩn bị mở chiến dịch Thượng Lào, chuẩn bị tấn công tập đoàn Điện Biên Phủ, chúng càng tăng cường quấy phá hậu phương.
Từ năm 1946-1954, hàng trăm thanh niên các xóm, làng đã tham gia các lực lượng vũ trang, làm nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên khắp các chiến trường.
Các đồng chí tham gia bộ đội chống Pháp như: Trần Tộ, Lê Đức Vịnh, Nguyễn Đình Phương, Nguyễn Đức Khơ, Nguyễn An Thơn, Lê Đức Hợp, Lê Đức Nhuận, Đậu Đức Sung, Ngô Trí Quát, Bùi T¬m, Văn Đức Tải, Trần Bá Vờn, Nguyễn Đình Chế, Hoàng Văn Hường, Nguyễn Xuân Tứ, Lê Công Trạch, Lê Công Đính, Nguyễn Xuân Diệu, Nguyễn Xuân Huỳnh, Quách Hữu Kịa, Văn Đức Lập, Ngô Văn Viên, Ngô Văn Cầu, Ngô Trí Tuỵnh, Nguyễn Xuân Phùng, Quách Hữu Thợt, Lê Công Phự.
Ngoài mặt trận, các chiến sỹ chiến đấu dũng cảm, quên mình lập nhiều chiến công. Chín đồng chí đã cống hiến cả đời mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đó là các liệt sỹ: Đậu Đức Sung, Ngô Trí Quát, Bùi T¬m, Quách Hữu Kịa, Trần Bá Vờn, Nguyễn Đình Chế, Nguyễn Xuân Huỳnh, Văn Đức Lập.
Dân công xã Văn Phương tham gia chiến dịch Hoà Bình (1952) 390 người, chiến dịch biên giới 300 người, trong đó nhân dân các làng quê Mai Hùng có hơn 100 người tham gia các chiến dịch.
Trong 9 năm kháng chiến, đảng, chính quyền và các đoàn thể các làng, xã tuy có sự nhập, tách nhưng đã lãnh đạo, chỉ đạo, động viên nhân dân và bằng trí, lực chúng ta đã bảo vệ quê hương, kẻ địch xâm phạm bị tiêu diệt (trận Càn của thực dân Pháp tháng 10 năm 1949, trận Đồng Lách năm 1953...), đó là sự nối tiếp truyền thống chống giặc ngoại xâm hàng ngàn năm hun đúc của dân tộc, nhất là từ ngày có Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân ta một lòng đi theo Đảng, truyền thống đấu tranh được phát huy và nâng cao, tô thắm trang sử quê hương.
3. Phát triển kinh tế- văn hóa- xã hội góp phần đưa cuộc kháng chiến giành thắng lợi
Trên mặt trận kinh tế - xã hội:
Vấn đề phát triển sản xuất ở Quỳnh Lưu trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược được đặt lên hàng đầu và trở thành một trong những nhiệm vụ chủ yếu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, động viên của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể từ huyện xuống cơ sở.
Trong phát triển sản xuất nông nghiệp vấn đề ruộng đất được xem là vấn đề then chốt; Huyện uỷ đã chỉ đạo các cơ sở tập trung với 3 việc:
Một là: Khai hoang phục hoá những diện tích bỏ hoang.
Hai là: Chia ruộng đất công điền cho nông dân không có ruộng hoặc thiếu đất canh tác.
Ba là: Thực hiện các chủ trương của Đảng, Chính phủ ban hành theo luật thời chiến.
Nhằm động viên và hướng mọi năng lực, nhiệt tình cách mạng của toàn dân, toàn quân ở hậu phương cũng như tiền tuyến vào mục đích đẩy mạnh cuộc kháng chiến. Ngày 27/3/1948, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị phát động phong trào “Thi đua ái quốc”().
Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng và lời kêu gọi của Bác về “phong trào thi đua ái quốc” và các việc cần tập trung giải quyết ở vùng tự do; chi bộ, chính quyền các xã Quỳnh Mai  - Văn Phương đã xác định: tiềm năng về đất ở địa bàn lớn, vì vậy công tác khai hoang để mở rộng diện tích trồng trọt được chú ý ngay sau khi có chính quyền cách mạng, các hộ nông dân được tự do mở mang diện tích và được miễn thuế trong những năm đầu khai hoang. Các vườn chè, chuối, trồng trên các triền núi được phục hồi, chăm bón trở lại xanh tươi như sức sống mới. Tiếp theo là cuộc vận động tăng gia sản xuất “vụ mùa chủ lực”, “vụ chiêm quyết thắng”, được phát động sôi nổi nhằm tăng năng suất cây trồng, bảo đảm lương thực, thực phẩm cho nhân dân, bộ đội và cung cấp cho kháng chiến.
Năm 1947, một vài hộ đứng ra thí điểm mô hình làm ăn tập thể. Làng Kim Lung ông Ngô Phiêng tập hợp 18 gia đình. Làng Yên Phú, ông Văn Đức Lơm tập hợp 9 gia đình cùng làm chung, ăn chung, theo hình thức cộng sản chủ nghĩa, lấy tên là hợp tác xã Ái Quốc. Nhưng mô hình này chưa thành công, một thời gian thì tan rã.
Học tập kinh nghiệm sản xuất của anh hùng nông nghiệp Hoàng Hanh, nhân dân các làng trồng nhiều khoai lang ụ là hình thức thâm canh khoai, trên một diện tích nhỏ hẹp, họ đào hố hình tròn, cho phân bón xung quanh, sâu khoảng 0,5m trên đó đắp thành gò cao 1m, dây khoai bò lan trên gò.
Phong trào tự túc vải mặc được triển khai, nhiều gia đình trồng bông và trồng dâu nuôi tằm. Gia đình ông Phiêng vµ nhiÒu gia đình khác đã nuôi hàng chục nong tằm.
Để mở rộng diện tích trồng trọt, nhiều gia đình ở xã Văn Hiến và làng Yên Lộc, Yên Trạch đi khai hoang ở Đá Bạc, Bến Nghè, đồng Sặm, họ trồng được nhiều khoai, ngô, sắn, lạc tăng thêm nguồn lương thực, thực phẩm.
Nhờ những cố gắng trong sản xuất nên suốt cả thời gian kháng chiến chống Pháp, nhân dân các làng quê không những đã tự túc được lương thực, vải mặc đảm bảo nhu cầu đời sống tối thiểu, mà còn đóng góp nhiều của cải vật chất cho kháng chiến.
Cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ là sự thử thách đối với mỗi người Việt Nam, một số người không hoặc cố tình chống lại cách mạng trong việc hiến điền, chính quyền đã cương quyết lấy lại ruộng đất để chia cho nông dân, tuy số ruộng được chia không nhiều nhưng đã động viên tinh thần hăng hái, cách mạng của nhân dân.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn cuối, càng trở nên sôi động. Nhiều đợt dân công được huy động.
Từ năm 1946-1954, hàng trăm thanh niên các thôn, làng đã tham gia các lực lượng vũ trang, làm nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên khắp các chiến trường.
Hàng trăm lượt người các làng đã tham gia dân công chống Pháp, phục vụ các chiến dịch Hà Nam Ninh, Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, Điện Biên Phủ... tiêu biểu như ông Ngô Trí Xích ở chòm Tiến bộ đã quá tuổi không phải trong diện cử đi, nhưng ông đã xung phong, trong quá trình phục vụ ông có nhiều thành tích được trên khen thưởng. Các dân công đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ: Ông Nguyễn Đức Nhị ở chòm Mỹ Xuyên, ông Trần Đức Niêm chòm Quyết Thắng, Cũng như các chiến sỹ quân đội, dân công đã vượt qua muôn vàn gian khổ hy sinh, để vận chuyển hàng hoá ra mặt trận bằng đôi vai và đôi chân vạn dặm. Trên đường ra chiến dịch, bom đạn địch thường xuyên phá đường, chặn lối, nhưng hình ảnh người dân công anh dũng còn in dấu ấn lịch sử qua các áng thơ:
          “Các anh chị dân công mòn đêm tiếp viện
          Vượt đèo cao gió lớn mưa to
          Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ
          Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát
          Dù bon đạn xương tan thịt nát
          Không sờn lòng không tiếc tuổi xanh"
Ở hậu phương, tiếp tục đẩy mạnh tăng gia sản xuất, đóng góp thuế, nghĩa vụ, phát động phong trào tòng quân; phong trào văn nghệ, múa hát, tuồng, cải lương trong mọi lứa tuổi. Các khẩu hiệu được kẻ vẽ “tất cả để chiến thắng”, “tất cả cho Điện Biện Phủ”, được viết và chăng khắp nơi trên các trục đường. Các chòm, chòi phát thanh, thông tin hoạt động hết công suất, tiếng loa bằng giấy, mo cau liên tục loan tin chiến thắng từ các chiến trường biểu dương người tốt việc tốt, sau đó là tiếng hát, tiếng thơ, tiếng reo hò cổ vũ động viên làm xao động một vùng quê.
Thật cảm động khi các cụ già, “Thất thập cổ lai hy” ngồi chẻ tre đan bồ, đan sọt, chuẩn bị gồng gánh phương tiện vận chuyển bằng đôi vai, xe đạp thồ. Các mẹ, các chị hông xôi, gói bánh, đùm cơm, mắm muối để dân công ngày mai kịp thời lên đường. Tin chiến thắng từ các chiến trường dội về, lời động viên của chi bộ, chính quyền, đoàn thể đối với những người ra đi làm nhiệm vụ. Thôn xóm những ngày đó sau luỹ tre làng, cạnh dòng sông Mai sao mà ấm êm, đằm thắm. Những gia đình có người thân ra mặt trận: Đi bộ đội, Thanh niên xung phong, dân công phục vụ chiến đấu, lúc thời vụ, bão tố ở nhà đã có dân làng giúp sức, làm thêm mảnh ruộng mới chia, giúp nhau phên tranh che chắn lúc mùa đông tới, cơn bão đi qua. Những kỷ niệm đó không bao giờ phai nhạt trong ký ức của Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể và nhân dân làng quê Mai Hùng.
Trong kháng chiến công tác thông tin tuyên truyền được chi bộ, chính quyền quan tâm. Công tác thông tin tuyên truyền trên tất cả các lĩnh vực mang tính thời sự kịp thời để nhân dân biết những chủ trương, chính sách của Đảng và chính phủ. Khi chưa nhập xã, làng quê có 4 trung tâm lớn, mỗi nơi đều có đình làng để hội họp, học tập xoá nạn mù chữ, học các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước (thường là mượn các địa điểm trung tâm: Đình làng, nhà thờ họ, nhà dân). Những nơi trung tâm được dựng một chòi cao khoảng 3 - 4m so với mặt đất, trên chòi có thể ngồi được 2-3 người, họ thay nhau đọc những bản tin thắng trận từ các chiến trường dội về, tin tức thời sự thế giới, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước được công khai, xen giữa các chương trình là các tiết mục văn nghệ, thơ, ca hò vè cổ vũ cho tòng quân, giúp công, giúp của để đẩy mạnh sản xuất, tiêu biểu nhất là xóm An Mỹ đã dùng 4 thanh ray đường sắt dựng chòi, trên có mái che.
Phong trào thi đua ái quốc “Tuần lễ vàng”, “thóc nuôi quân”, “hũ gạo tiết kiệm”, “công trái quốc gia”, “công trái kháng chiến”, làm cho người dân tăng thêm nhiệt huyết đối với Tổ quốc. Công tác thông tin tuyên truyền đã góp phần làm cho những chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ, lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về: “Cứu đói và chống đói” đã trở thành hành động thiết thực; người cuốc, người cày đi khai hoang vỡ hoá, các nương nại: dâu, chè, chuối lại xanh tươi, ngô, lạc, đậu, vừng, khoai lang, bầu bí được mọc lên trên các sườn đồi, đất trống, tiêu biểu cho phong trào là ông Ngô Trí Len ở chòm Tiến Bộ được UBKC- HC tỉnh Nghệ An tặng danh hiệu chiến sĩ thi đua. Phong trào diệt giặc dốt thôi thúc mọi người, thông qua công tác tuyên truyền “Đi học là yêu nước”, “Dạy học là yêu nước”, chỉ trong vòng hơn 1 năm chúng ta cơ bản đã thanh toán nạn mù chữ, được huyện khen thưởng.
Xây dựng nếp sống văn hoá - giáo dục:
Cùng với việc xây dựng lực lượng, bảo vệ quê hương, chi viện cho các chiến trường sức người và của, đẩy mạnh sản xuất, thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, Chính phủ trong thời chiến với phương châm: Kháng chiến toàn dân, toàn diện còn được thể hiện trong lĩnh vực văn hoá - xã hội.
Sự nghiệp giáo dục ở vùng Hoàng Mai được cấp uỷ chính quyền và các đoàn thể quan tâm chỉ đạo. Nối tiếp những thành tích đạt được của những năm đầu khi chính quyền mới được thành lập, công tác xoá mù, bình dân học vụ tiếp tục được duy trì  do công sức đóng góp của Đảng bộ và nhân dân. Lúc đầu cả vùng Hoàng Mai hình thành trường chỉ có hai lớp 5 (tương đương với lớp 6 hiện nay), phụ trách trường là thầy Hà Mạch. Trường thu hút con em cả vùng Bắc Quỳnh Lưu, sau một thời gian trường giải thể, con em lại phải vào Quỳnh Bá, Quỳnh Đôi để theo học tiếp. Năm 1949, theo chủ trương chung, trường tiểu học Hoàng Mai chuyển đổi hệ thống các trường phổ thông thống nhất trong toàn quốc. Cấp I (từ lớp 1 đến lớp 4) nay là tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5. Cấp II (từ lớp 5 đến lớp 7) nay là trung học cơ sở từ lớp 6 đến lớp 9. Cấp III (từ lớp 8 đến lớp 10) nay là trung học phổ thông. Sau khi chuyển hệ các lớp vỡ lòng (Mầm non), chuyển về các xóm.
Ngày 19/5/1949, nhân dịp kỷ niệm 59 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Nghệ An ra Quyết định công nhận huyện Quỳnh Lưu là một trong 6 huyện trong tỉnh đạt tiêu chuẩn thanh toán nạn mù chữ, xã Quỳnh Mai - Văn Phương là một trong những địa phương dẫn đầu.
Dưới mái trường phổ thông, các phong trào thanh - thiếu nhi đã được tập hợp và hoạt động sôi nổi như phong trào Trần Quốc Toản, các việc làm: sạch làng tốt ruộng, lấy phân xanh phục vụ cho sản xuất nhằm đưa năng suất cây trồng tăng lên; phong trào làm việc giúp ích bộ đội nơi tiền phương. Không những thế, các cháu cùng với các anh, các chị, hát múa các bài hát, điệu nhảy “Yêu hoà bình” với nội dung ca ngợi tình hữu nghị Việt -Trung - Xô thắm thiết, liên tục mở ra nơi đình làng, trường học, nơi ngã ba, ngã tư đã thu hút các tầng lớp già, trẻ, gái, trai. Các ngày lễ, tết, ngày kỷ niệm: Sinh nhật Bác 19/5, rằm trung thu 15/8, liền kề với ngày thành lập nước, lực lượng đoàn viên, thanh niên đã tổ chức cho các cháu vui chơi, kết kiệu hoa để rước chân dung ảnh Bác Hồ, kết đèn ông sao cho các cháu đón rằm trung thu. Những lời ca, điệu múa ca ngợi non sông đất nước, ca ngợi Đảng cộng sản Việt Nam, Bác Hồ kính yêu, động viên toàn quân, toàn dân đánh thắng thực dân Pháp xâm lược.
Trong cuộc vận động bài trừ mê tín dị đoan, xây dựng cuộc sống mới đã đem lại những kết quả đáng khích lệ. Phong trào được tiến hành rộng khắp, được nhân dân đồng tình ủng hộ bằng những việc làm thiết thực. Lễ cưới hỏi được giảm tiện, trong đám cưới chỉ dùng trầu cau, chè nước, cùng nhau chúc mừng hạnh phúc cho lứa đôi. Những đám tang được tổ chức trang nghiêm, giảm thời giờ lúc ở ngoài nghĩa địa, việc bói toán đồng bóng, cờ bạc từng bước được dẹp bỏ.
Một nét đẹp nổi bật là tình làng, nghĩa xóm, tình dân với Đảng được gắn quyện, lúc tối lửa tắt đèn có nhau; bát cơm, manh áo nhường cho những thầy dạy chữ, nồi cháo cho những phát thanh viên sau mỗi buổi tối phát tin tức và biết bao những việc làm tương thân, tương ái khác. Những hình ảnh đó còn mãi mãi lắng đọng trong mỗi tâm trí của mỗi một người con trên quê hương.
Công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được cấp uỷ, chính quyền quan tâm chỉ đạo. Ngoài các “Thầy thuốc” theo gia truyền, công tác phòng chống dịch đậu mùa được tiến hành liên tục thường xuyên, dịch tả từng bước được đẩy lùi.
          Chín năm kháng chiến, nhân dân Quỳnh Mai - Văn Phương nói chung, các làng xã Mai Hùng nói riêng, đã động viên nhân tài, vật lực phục vụ cho cuộc kháng chiến, bảo vệ quê hương, đẩy mạnh sản xuất, làm tròn nghĩa vụ hậu phương đối với tiền tuyến. Cung cấp đầy đủ mọi nhu cầu khi cần, mồ hôi, máu, thịt của các anh, các chị đã đổ xuống để có: "Chín năm làm một Điên Biên
                                        Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng".
Tổ quốc đã ghi công 9 liệt sĩ, 1 cán bộ cách mạng tiền khởi nghĩa và tặng thưởng nhiều huân, huy chương các loại cho những người tham gia kháng chiến.          Thắng lợi vẻ vang đó trước hết là nhờ tinh thần chiến đấu hi sinh của các liệt sĩ, thương binh đã không tiếc xương máu để bảo vệ quê hương, đất nước. Chúng ta cũng không quên những anh, chị em dân công chân đất, vai đồng với đôi bồ, sọt vận chuyển quân lương vượt suối, băng đèo, xuyên rừng mang hàng ra tiền tuyến dưới làn mưa bom, lửa đạn và còn đó là lòng nhiệt tình cao của nhân dân đối với nghĩa vụ đất nước.
Thắng lợi bắt nguồn từ sự lãnh đạo sáng suốt của chi bộ đã quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng: “kháng chiến toàn dân, toàn diện”, “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” và “trường kỳ, kháng chiến, nhất định thắng lợi”. Nghiêm chỉnh chấp hành Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Sắc lệnh của Chính phủ; tuân thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của huyện, tỉnh. Qua từng giai đoạn chuyển biến của cách mạng đã vận dụng sáng tạo, linh hoạt, cụ thể đường lối chung vào hoàn cảnh thực tế của địa phương, đề ra những chủ trương sát đúng phù hợp với lòng dân; huy động được sự đóng góp tối đa về người và của cho cuộc kháng chiến. Qua thử thách tôi luyện chi bộ không ngừng lớn mạnh về tư tưởng, tổ chức, giữ nghiêm kỷ luật, đảng viên trưởng thành, đủ sức lãnh đạo chính quyền, xây dựng đoàn thể vững mạnh, phát huy được khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp hoàn toàn thắng lợi, quê hương đất nước bước qua một giai đoạn lịch sử mới.
 
CHƯƠNG IV
ĐẢNG BỘ NHÂN DÂN XÃ QUỲNH  HỢP - QUỲNH KIM TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 -1975)
Chín năm trường kỳ kháng chiến, gian khổ, ác liệt, chúng ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, chấn động địa cầu, buộc thực dân Pháp và bè lũ tay sai cũng như bọn can thiệp Mỹ phải ký Hiệp định Giơnevơ (20/7/1954), hoà bình được lập lại trên bán đảo Đông Dương, thực dân Pháp phải công nhận độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.
Theo tinh thần cơ bản của Hiệp định, miền Bắc Việt Nam hoàn toàn giải phóng, miền Nam tạm thời dưới quyền kiểm soát của thực dân Pháp. 2 năm sau (1956), nước ta sẽ có cuộc tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội thống nhất. Nhưng đế quốc Mỹ từng bước thế chân thực dân Pháp, ngang nhiên xé bỏ Hiệp định, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm với dã tâm: biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ, chia cắt lâu dài và vĩnh viễn đất nước. Nhiệm vụ của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới được Đảng khẳng định:
Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân cơ bản được hoàn thành tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm căn cứ địa cách mạng vững chắc cho cả nước.
Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, giải phóng miền Nam tiến tới thống nhất Tổ quốc.
Cùng với miền Bắc và cả nước; Đảng bộ, nhân dân các làng xã Mai Hùng bước vào giai đoạn mới. Những chặng đường đi lên gắn bó chặt chẽ, khăng khít với quá trình xây dựng, phát triển, chiến đấu bảo vệ hậu phương, chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam.
I. Ổn định tình hình sau chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1954 - 1964).
1- Sắp xếp lại tổ chức
Hoà bình được lập lại, ngày 25/4/1954 xã Quỳnh Mai được chia tách thành các xã. Xã Quỳnh Hợp được hình thành trên cơ sở hợp nhất hai thôn, xóm Yên Trạch - Yên Lộc tách từ xã Quỳnh Mai, làng Yên Phú (chòm Trung Kiên) tách từ xã Văn Phương. Chi bộ có 19 đảng viên.
Đồng chí: Vũ Xuân Phương được chỉ định làm Bí thư Chi bộ
Đồng chí: Nguyễn Xuân Phôn làm Chủ tịch.
Tháng 5 năm 1957, xã Quỳnh Kim được thành lập, chia tách từ xã Quỳnh Phương về gồm các xóm An Mỹ, Thịnh Mỹ, Trung Thành, Thắng Mỹ, Mỹ Xuyên, thuộc 2 làng Kim Lung, Ngọc Huy.
Chi bộ xã Quỳnh Kim được thành lập, có 4 tổ đảng với 66 đảng viên.
Tháng 5 năm 1957, Đại hội lần thứ nhất Chi bộ xã Quỳnh Kim, bầu BCH chi uỷ và được phân công:
Đồng chí: Trần Bá Tuồn, Bí thư Chi bộ
Đồng chí: Nguyễn Văn Nhuận, Phó Bí thư - Chủ tịch.
2. Tiến hành khôi phục kinh tế, cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội:
Hoà bình lập lại, nhưng đời sống của nhân dân xã Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim vẫn chưa được cải thiện. Tuy Nhà nước giảm tô 25%, nhưng không triệt để, ruộng đất phần lớn vẫn nằm trong tay giai cấp địa chủ, kinh tế nông nghiệp vẫn phụ thuộc thiên nhiên. Tháng 9 (vụ 10) năm 1954, Hoàng Mai bị lụt lớn, mùa màng thất bát, giá gạo tăng, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. Kinh tế chưa được phục hồi, đế quốc Mỹ càng ra sức tìm mọi cách phá hoại Hiệp định Giơnevơ và nhanh chóng thế chân thực dân Pháp.
Trong bộn bề công việc, mặc dù về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Bắc đã hoàn thành, nhưng ruộng đất là vấn đề quan trọng ở miền Bắc sau khi hoà bình. Xã Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim đã trải qua cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh giảm tô nên quan hệ giữa địa chủ và nông dân đã thay đổi, địa chủ không còn thế lực. Mặt khác, trong cuộc kháng chiến nhiều địa chủ tham gia đóng góp: hiến điền, mua công trái. Do vậy cải cách ruộng đất ở Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim chủ yếu để khẳng định xoá bỏ giai cấp địa chủ bóc lột và kiện toàn tổ chức theo quan điểm của Đảng.
Tháng 3/1955, ba huyện: Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu được tỉnh chọn làm thí điểm về cải cách ruộng đất. Chi bộ đảng Quỳnh Hợp được kiện toàn, Đại hội đã bầu những người không liên quan với giai cấp địa chủ.
Đồng chí:  Văn Đức Lựu,  Bí thư Chi bộ
Đồng chí:  Nguyễn Xuân Phôn, Chủ tịch UBHC
Chi bộ Đảng, chính quyền được kiện toàn, nhưng toàn bộ quyền lực là do Đội cải cách (Đội cải cách do trên cử về). Đội phân công người về cơ sở xóm, tiến hành “ba cùng”, “bắt rễ, xâu chuỗi, cùng ăn cùng ở” trong bần nông, cố nông để hướng dẫn quần chúng đấu tranh. Họ lập hồ sơ những người có nhiều ruộng. Toàn bộ xã Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim (xã Quỳnh Kim lúc đó thuộc xã Quỳnh Phương, vùng biển nên làm chậm hơn), mỗi xã có trên chục hộ gia đình bị quy là địa chủ, phú nông. Trong số những hộ bị quy có người trước đây từng là cán bộ, đảng viên có công với cuộc kháng chiến.
Cùng với cải cách ruộng đất, là việc đóng lương thực cho nhà nước hay còn gọi là đóng “thuế khả năng”, thuế được phân chia cho tất cả các thành phần trong xã hội, những hộ có trong hồ sơ là địa chủ, phú nông, việc đóng thuế theo khả năng là bắt buộc, nhân dân nhận thức thấy được việc đóng thuế là “ích nước, lợi nhà” nên khi được quy định mức, họ đóng góp tích cực. Nhiều gia đình trong nhà không còn lương thực, họ đã vay mượn, bán đi một số đồ dùng có giá để đóng thuế, đúng thời gian.
Cải cách ruộng đất năm 1955, thu được thắng lợi cơ bản, ruộng ®Êt được chia cho dân, cùng nhiều tư liệu sản xuất. Phải khẳng định rằng đường lối cải cách ruộng đất là đúng, đây là việc thực hiện Cương lĩnh của Đảng được nêu ra từ năm 1930 đó là: “Độc lập dân tộc, người cày có ruộng”. Thắng lợi của công cuộc cải cách ruộng đất không chỉ là ở chỗ lấy lại ruộng đất, tài sản của địa chủ chia cho dân nghèo, điều cốt yếu là quan hệ sở hữu ruộng đất và tư liệu sản xuất ở nông thôn nhất là nông thôn nông nghiệp đã được thay đổi. Người lao động thực sự làm chủ ruộng đất, làm chủ tư liệu sản xuất, giai cấp bóc lột mất cơ sở kinh tế, mất quyền sở hữu ruộng đất và tư liệu sản xuất khác, họ trở thành người lao động không bóc lột.
          Cải cách ruộng đất ở Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim cũng như toàn miền Bắc nói chung diễn ra trong bối cảnh miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, quan hệ giữa giai cấp địa chủ và giai cấp nông dân đã có những chuyển biến; giai cấp địa chủ đã mất địa vị chính trị - kinh tế. Thực chất của cuộc cải cách ruộng đất là đấu tranh chính trị quan trọng, xoá bỏ hoàn toàn quan hệ sản xuất phong kiến ở nông thôn. Xoá bỏ giai cấp địa chủ với tư cách là một giai cấp bóc lột, giải phóng người nông dân lao động để họ trở thành người nông dân tự do, có ruộng đất để sinh sống, đó là nguyện vọng, mơ ước ngàn đời “người cày có ruộng”.
          Cuối năm 1956, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sai lầm trong việc thực thi đường lối cải cách ruộng đất, kịp thời ban hành Sắc lệnh sửa sai. Thực hiện chủ trương của trên, Đảng, chính quyền, các đoàn thể và nhân xã Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim cùng với miền Bắc bước vào thời kỳ sửa sai. Các gia đình bị quy sai được bù lại ruộng đất, trả lại tư liệu sản xuất, tiêu dùng. Một số gia đình quy sai có biểu hiện khiếu nại, nhưng do làm tốt công tác tư tưởng, động viên và đối xử đúng mực nên họ nhanh chóng hoà nhập cùng cộng đồng, yên tâm làm ăn, xây dựng cuộc sống. Số cán bộ đảng viên bị xử lý oan; đảng viên được trả lại đảng tịch, khôi phục lại chức vụ như đồng chí: Vũ Xuân Phương được chỉ định làm Chủ tịch. Tình đồng chí, nghĩa đồng bào đã được nối lại.
          3. Củng cố hệ thống chính trị, xây dựng tổ đội công tiến tới xây dựng hợp tác xã.
Củng cố hệ thống chính trị:
Dưới sự chỉ đạo của huyện các tổ chức được kiện toàn. Theo hướng dẫn của trên xã Quỳnh Hợp - Quỳnh Kim rà soát lại đội ngũ cán bộ, đưa những người không đủ trình độ, năng lực, phẩm chất ra khỏi bộ máy, bổ sung những người đủ tiêu chuẩn. Học tập và làm theo bài viết: Chi bộ ở nông thôn của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết ngày 19/2/1957, kêu gọi đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở nông thôn. Hồ Chủ tịch nêu rõ: “Là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam, thì dù xuất thân từ thành phần khác nhau, cũng đều chung một đại gia đình cách mạng, đều chung một mục đích là xây dựng chủ nghĩa xã hội, đều chung một lập trường là lập trường giai cấp công nhân. Cho nên trong chi bộ không nên có sự phân biệt đồng chí này là trung nông, đồng chí kia là bần cố nông. Bất cứ trung nông hay bần cố nông đã là đảng viên thì đều chung một lập trường giai cấp, lập trường của Đảng. Tất cả đều phải thực sự đoàn kết, nhất trí, đồng tâm hiệp lực, lãnh đạo nông thôn thi hành cho đúng chính sách của Đảng và Chính phủ.
Chi bộ thật thà, đoàn kết, nhất trí thì lãnh đạo được nông thôn đoàn kết nhất trí. Chi bộ và nông thôn đoàn kết nhất trí thì công việc sửa sai cũng như công việc sản xuất và mọi công việc khác tuy nhiều khó khăn phức tạp, cũng nhất định làm được tốt” ().
          Sau đợt học tập thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các chi bộ đảng được kiện toàn:
          Chi bộ  xã  Quỳnh Hợp:
          Đồng chí:  Lê Đức Tráng,  Bí thư Chi bộ
          Đồng chí:  Vũ Xuân Phương, Phó Bí thư -Chủ tịch UBHC.
          Chi bộ  xã  Quỳnh Kim
          Đồng chí: Ngô Văn Khoan, Bí thư Chi bộ
          Đồng chí:  Ngô Trí Quyết Phó Bí thư, Chủ tịch UBHC.
          Dân số của hai xã Quỳnh Kim, Quỳnh Hợp lúc thành lập, (Quỳnh Kim gồm 2 làng cũ Kim Lung, Ngọc Huy, dân số 1.700 người; Quỳnh Hợp gồm làng Yên Phú và các thôn Yên Lộc, Yên Trạch, dân số 2.300 người).
Chi bộ Đảng được kiện toàn tăng thêm sức lãnh đạo, công tác phát triển Đảng được chú ý hơn. Hoạt động của chính quyền và các đoàn thể được Đảng lãnh đạo, chỉ đạo sát sao. Trong các đoàn thể Mặt trận Việt Minh Liên Việt (ngày nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) được Đảng đầu tư quan tâm chỉ đạo, vì đây là cầu nối, khâu trung gian liên kết trong buổi đầu thành lập tổ đổi công, tiến tới xây dựng hợp tác xã.
          Về lĩnh vực phát triển kinh tế:
Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh uỷ Nghệ An, tháng 4 năm 1957 về củng cố, phát triển tổ đổi công, xây dựng hợp tác xã điển hình. Ở Quỳnh Lưu phong trào đổi công được phát triển trước đây nay được nhân ra diện rộng, có nơi đã xây dựng hợp tác xã liên thôn, liên xã. Dưới sự chỉ đạo của huyện, chi bộ đảng đã bàn bạc kỹ và giao trách nhiệm cho tổ chức Nông hội cùng các đoàn thể vận động bà con nông dân ở các xóm xây dựng tổ đổi công, thành lập các hợp tác xã.
Mùa mưa năm 1957, thực hiện Chỉ thị của Huyện ủy về việc đắp đê chống lụt, nhân dân Quỳnh Hợp - Quỳnh Kim  đã huy động hàng ngàn ngày công nạo vét kênh Son, gia cố các đập ngăn mặn La Man, Đá Chiêng (thị trấn Hoàng Mai). Cũng trong năm này, phong trào “Vì miền Nam ruột thịt”, mặc dù nhân dân xã Quỳnh Hợp - Quỳnh Kim tuy không phải là địa điểm tập kết của bà con miền Nam, nhưng đã chắt chiu từng hạt gạo, củ khoai, manh chiếu giúp đỡ bà con miền Nam tập kết, không những thế còn có gia đình gả cả con gái mình cho cán bộ tập kết như anh Bùi Quang Trọng (hiện nay ở thôn 12) sau này là cán bộ chủ chốt của xã.
Năm 1958, Huyện uỷ chủ trương tiếp tục tổ chức học tập chủ trương của Trung ương về khôi phục phát triển tổ đổi công. Chi bộ cùng chính quyền và các đoàn thể quán triệt đã tiếp tục đi vào từng hộ để giải thích, vận động nhân dân tích cực tham gia, củng cố xây dựng các tổ đổi công. Học tập chủ trương và nhờ sự vận động thuyết phục, hợp tác xã nông nghiệp đầu tiên được hình thành trên xã Quỳnh Kim - Quỳnh Hợp: 
Năm 1959-1960, xã Quỳnh Kim có 5 HTX nông nghiệp gồm:
HTX Trung Thành: Nguyễn Đức Ngan, Chủ nhiệm.
HTX Thắng Mỹ: Ngô Trí Quyết, Chủ nhiệm
HTX An Mỹ: Bùi Mởn, Chủ nhiệm.
HTX Thịnh Mỹ: Bùi Khính, Chủ nhiệm.
HTX Mỹ Ngọc: Nguyễn Đình Phương, Chủ nhiệm.
        Năm 1959-1961 chòm Trung Kiên thuộc xã Quỳnh Hợp thành lập 4 HTX xã nhỏ.
         HTX Quyết Tiến: Đậu Viết Thườn, Chủ nhiệm.
        HTX Yên Thịnh: Văn Đức Thìn, Chủ nhiệm.
        HTX Yên Trung: Đinh Chi, Chủ nhiệm.
        HTX Yên Đông: Đậu Tẩn, Chủ nhiệm.
        Năm 1959, Yên Lộc, Yên Trạch thành lập HTX Tiền Phong, Ban quản trị qua các  kỳ
        Năm 1959-1960: Nguyễn Xuân Khang, Chủ nhiệm. Năm 1960-1961: Văn Đức Nhàn, Chủ nhiệm.
          Các hợp tác xã tập trung vào hai nhiệm vụ: một là, Vận động nhân dân đẩy mạnh sản xuất và cải tiến kỹ thuật canh tác trong nông nghiệp; hai là, Vận động nhân dân xây dựng HTX, tiến tới xây dựng hợp tác xã bậc cao.
Ngày 24/9/1959, Thông tri số 178, Huyện uỷ nêu lên việc sản xuất vụ mùa, đồng thời nhấn mạnh việc xây dựng tổ đổi công, xây dựng hợp tác xã, Thông tri nêu rõ: “Cần bắt tay vào việc củng cố tổ đổi công và hợp tác xã bằng cách tiếp tục học tập thư Bác, trên cơ sở đó mà tổ chức, củng cố, bảo đảm đẩy mạnh vụ chiêm xuân hiện tại và chuẩn bị cho Đông - Xuân 1959-1960. Đối với các hợp tác xã đang xây dựng thì cần kiểm tra, đôn đốc và nắm vững 3 điều kiện, 3 bước của việc xây dựng hợp tác xã, chi uỷ phải nắm sát tình hình để lãnh đạo”.
Trong năm 1959, Tỉnh uỷ Nghệ An cử người ra cùng với Huyện uỷ Quỳnh Lưu tăng cường cho cơ sở bám sát tình hình xây dựng hợp tác hoá ở nông thôn.
Cuối năm 1960, với tư tưởng chỉ đạo quyết liệt nên nhiều hộ gia đình viết đơn xin vào hợp tác xã một cách ồ ạt “theo phong trào” nên vi phạm nguyên tắc tự nguyện. Phong trào xây dựng hợp tác xã ở địa phương còn mang nhiều yếu tố chủ quan, chưa hiểu thấu đáo về cải tạo XHCN nền kinh tế, đồng nhất hợp tác hoá với tập thể hoá, chỉ chú trọng nhiều đến việc giải quyết vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất (đóng góp ruộng đất, trâu bò, công cụ sản xuất làm chung), chưa thực sự chú ý đến công tác quản lý cũng như đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã.
Từ năm 1959 đến 1960, sản xuất nông nghiệp diễn ra trong điều kiện khí hậu thời tiết không bình thường. Năm 1958 nắng hạn 172 ngày liền. Năm 1960, nắng hạn, rồi bão tố gây nhiều tổn thất. Cuối năm 1959, đầu năm 1960, sâu róm phá hoại rừng thông vùng Hoàng Mai rất nghiêm trọng, nguy cơ hàng ngàn hécta thông có giá trị cao về kinh tế, đồng thời là lá phổi cân bằng sinh thái sẽ bị xâm hại. Huyện uỷ đã có Thông tri số 252 ngày 23/9/1959 điều động các xã có thông và huy động giáo viên, học sinh cùng với nhân dân các xã vùng Hoàng Mai tập trung diệt sâu. Nhờ sự tập trung chỉ đạo của các chi bộ, chính quyền nên rừng thông kịp thời được cứu sống.
Phong trào khai hoang, phục hoá được dấy lên mạnh mẽ, hợp tác xã Tiền Phong khai hoang ở Đồng Sặm (ngày nay là lòng hồ Vực Mấu), trồng khoai, tỉa lạc đạt năng xuất cao, bán cho Nhà nước hàng chục tấn lạc, được Ủy ban hành chính tỉnh Nghệ An tặng bằng khen và thưởng một đài bán dẫn Ôri ôngtông.
          Phong trào làm thuỷ lợi, đẩy mạnh khai hoang, phục hoá được tiến hành từ những lúc thành lập tổ đổi công. Năm 1958, Huyện huy động cả vùng Hoàng Mai đắp đập Khe Bung, lấy nước cho sản xuất và sinh hoạt cho nhân dân vùng phía bắc huyện.
          Lĩnh vực văn hoá – xã hội
Công tác xoá mù chữ tiếp tục được duy trì, quan tâm, trình độ dân trí được nâng lên, đoàn thanh niên làm nòng cốt cho phong trào.
Trong lĩnh vực giáo dục, đến năm 1955, trường cấp 2 Quỳnh Thiện được hình thành trở lại nhưng cũng chỉ học tạm trong nhà dân, các đình, chùa. Đến năm 1959-1960, trường có 3 khối (5-6-7), mỗi khối 2 lớp, học sinh là con em ở vùng bắc Hoàng Mai.
Năm 1945 - 1960 (Quỳnh Hợp), có các thầy cô dạy vỡ lòng (mẫu giáo) gồm: Nguyễn Xuân Trung, Vũ Xuân Não, Lê Thị Thắng, Nguyễn Xuân Cớt, Nguyễn Xuân Tứ, Đậu Danh Vững, Đậu Thị Tiềm, Sĩ Bảo. Năm 1964, trường cấp II Quỳnh Hợp được xây dựng, địa điểm ban đầu ở Bến Lở (giáp giới giữa thôn 12 và 13), thầy Nguyễn Đình Triêu (Nam Đàn) làm Hiệu trưởng. Năm (1965) chiến tranh phá hoại xảy ra, trường dời về Cửa Thần (phía Tây Bắc núi Sui), thầy Văn Sĩ Tâm làm Hiệu trưởng. Trong những năm tháng chiến tranh, trường chuyển qua nhiều địa điểm khác nhau để duy trì việc dạy và học.
Cùng với sự nghiệp giáo dục, công tác y tế được quan tâm, đã bổ sung thêm trang thiết bị và đội ngũ y tế.
Xã Quỳnh Hợp, từ năm 1953 - 1964, nhà thương (trạm y tế) được xây dựng bằng tranh ở xóm Yên Trạch (gần giếng ngoài) do bà Đậu Thị Thoai phụ trách, đến năm 1957 huyện điều ông Võ Khắc Hạng về làm Trưởng trạm. Năm 1960, huyện điều bà Thoại đi Quỳnh Hải (Sơn Hải), bà Phấn (Quỳnh Hậu) về thay, bà Nguyễn Thị Bình làm hộ sinh, Nguyễn Thị Hoạt bán thuốc. Trạm được chuyển đến nhà bà Đắc có các ông bà:
Lê Đình Thụ, Y sĩ
Lê Thị Tặng, bán thuốc
Hồ Thị Ninh, hộ sinh
Nguyễn Xuân Kỷ, phụ trách đông dược
        Vùng Kim Lung, trạm xá được xây dựng (1957) ở vùng ông Khuy, có chị Nguyễn Thị Lan làm hộ sinh. Năm 1958, chị Tình thay chị Lan, các y tá có: ông Nguyễn Đình Đờn, Ngô Trí Chư, Trần  HuyThạc bán thuốc đông y. Năm 1964, có các y tá: Trương Hữu Phúc, Bùi Thị Hạnh.
        Phong trào vệ sinh phòng bệnh được cấp uỷ quan tâm, chính quyền chỉ đạo sát sao, các đoàn thể vận động tích cực nên không có dịch bệnh xẩy ra.
Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, trong những năm đầu xây dựng tổ đổi công và hợp tác hoá. Nhiều hộ trước đây thiếu đói phải đi phát rừng, trồng thêm rau màu, sắn, khoai, nay chuyên tâm vào sản xuất.
          Phong trào xây dựng cuộc sống mới vẫn còn bộc lộ những tồn tại. Ngày 15/7/1960, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu đã họp và ra Nghị quyết số 21. Nghị quyết nhấn mạnh: “Ra sức củng cố và phát triển tổ đổi công, tích cực xây dựng hợp tác xã, trên cơ sở đó đẩy mạnh sản xuất, cấm giết bê, bò, nấu rượu trái phép; cần đẩy mạnh công tác văn hoá, giáo dục. Cán bộ huyện gần cơ sở làm cho người tốt ủng hộ ta, số lừng chừng theo ta, đẩy mạnh phong trào hợp tác hoá, hạn chế bọn phá hoại” ()
          4. Đảng bộ hai xã Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim lãnh đạo nhân dân thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965)
Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ III (từ ngày 5-12/9/1960), của Đảng Lao động Việt Nam, nêu rõ nhiệm vụ đề ra cho 5 năm lần thứ nhất về phát triển kinh tế - xã hội: “Thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng văn hoá và kỹ thuật, biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp, nông nghiệp hiện đại, văn hoá và kỹ thuật tiên tiến” ().
Thực hiện Điều lệ Đảng, tháng 4/1961, chi bộ Đảng xã Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim được nâng lên thành Đảng bộ.
Xã Quỳnh Hợp, Đại hội kiện toàn tháng 4 năm 1961
Đồng chí: Đậu Đức Thuý được bầu làm Bí thư (1961-1963).
Đồng chí: Văn Đức Đa Phó, Bí thư - Chủ tịch UBHC
Đảng bộ có 65 đảng viên, trong đó có 6 nữ, số đảng viên được kết nạp từ năm 1946 - 1949 là 37 đồng chí, kết nạp từ năm 1950 - 1954 là 13 đồng chí. Trình độ văn hoá cấp I là 64 đồng chí, cấp II, 1 đồng chí.
Xã Quỳnh Kim, Đại hội kiện toàn tháng 4 năm 1961
          Đồng chí: Trần Bá Thái được bầu làm Bí thư.
          Đồng chí: Nguyễn An Doãn, Phó Bí thư, Chủ tịch UBHC (1961 - 1962).
          Đảng bộ có 73 đảng viên, trong đó có 14 nữ, số đảng viên được kết nạp từ năm 1946 – 1954 có 30 đồng chí, kết nạp từ năm 1950 – 1954 có 39 đồng chí. Trình độ văn hoá cấp I có 72 đồng chí, cấp II không, còn lại 1 không biết chữ.
Nhiệm vụ của các Đảng bộ được đặt ra trong thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961-1965: Phát huy tiềm năng về mọi mặt, đẩy mạnh cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, tập trung lãnh đạo phát triển nông nghiệp toàn diện.Thách thức lớn của các đảng bộ trong thời kỳ này là đảm bảo vấn đề lương thực cho nhân dân.
Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu lần thứ VII, lần thứ VIII đều xác định: “Phải đặt trọng tâm vào lãnh đạo phát triển nông nghiệp, phải lấy việc giải quyết đảm bảo lương thực, thực phẩm làm nhiệm vụ cấp bách, cố gắng khắc phục tình trạng thiếu đói”.
Trước hết là xây dựng củng cố hợp tác xã. Trong năm 1960 - 1961, phong trào vào hợp tác xã tiến lên đỉnh điểm, các hợp tác xã lần lượt được hợp nhất:
Năm 1960 - 1965: 4 HTX nhỏ (vùng Kim Lung) hợp nhất thành HTX Kim Lung.
Năm 1961 - 1969: HTX Tiền Phong vẫn được duy trì.
Năm 1961 - 1969: 4 HTX (vùng Toàn thắng), nhập lại thành HTX Toàn Thắng.
Quan hệ sản xuất mới được hoàn thiện, lề lối làm ăn tập thể bước đầu phát huy tác dụng, nhất là việc ứng dụng các biện pháp kỹ thuật vào sản xuất.
Đi đôi với cải tiến công cụ sản xuất, tăng thêm lượng phân bón các loại, cũng như áp dụng những tiến bộ KH - KT, tuyển chọn giống mới, gieo trồng tăng năng suất cây trồng.
Phong trào cải tiến công cụ sản xuất được thực hiện: “bỏ cày chìa vôi lên ngôi 51” được áp dụng, tiếp đến là sử dụng bừa cỏ Nghệ An. Bừa có ưu điểm là nhẹ, vừa lợi công, vừa kích thích cây lúa sinh trưởng lại diệt được cỏ. Phong trào làm phân bón diễn ra sôi nổi, dẫn đầu phong trào do lực lượng thanh niên làm nòng cốt.
Các xã tạo nguồn phân hữu cơ bằng lá ủ vôi gọi là “phân xanh”. HTX Tiền Phong (Quỳnh Hợp) khai thác nguồn phân hữu cơ ở lèn Chai (Quỳnh Trang) và nấu vôi từ sò biển để làm phân bón, về sau phát triển giống bèo hoa dâu nhân ra diện rộng.
Các giống lúa mới được áp dụng là nông nghiệp 5, nông nghiệp 8, trân châu lùn, giống khoai Hồng Quảng. Giống lợn lai gọi là Đại bạch.
Nhờ quan hệ sản xuất mới (làm ăn tập thể) và áp dụng kỹ thuật mới nên năng suất lúa địa phương thời kỳ này không ngừng tăng lên.
Những năm 1960-1964, Các HTX Tiền Phong (Quỳnh Hợp), Kim Ngọc (Quỳnh Kim) năng suất lúa đạt 100kg/sào cao hơn năng suất bình quân toàn huyện lúc đó chỉ là 70kg/sào. HTX Tiền Phong được công nhận là phong trào “Gió Đại Phong” của huyện Quỳnh Lưu. HTX Kim Ngọc được huyện tặng thưởng về thành tích tăng năng suất lúa.
Trong 10 năm (1954 -1964), toàn tỉnh rộ lên hai phong trào lớn có tác động đến các đoàn thể nhằm phát triển kinh tế của xã Quỳnh Kim, xã Quỳnh Hợp. Chiến dịch “tiếng trống Xô Viết” và chiến dịch “An - Ngãi quật khởi” (). Qua 2 cuộc vận động đã cuốn hút nhiều người tham gia, đẩy mạnh sản xuất và cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nông thôn. Để có đủ lương thực, theo tinh thần chỉ đạo quyết liệt của Huyện uỷ, động viên toàn thể nhân dân làm thuỷ lợi.
Trong năm 1963, năm điển hình về huy động sức dân làm thuỷ lợi trên mọi vùng, miền của huyện. Công trình lớn, mang sức huy động dân đóng góp cao, hoàn thành nhanh đó là kênh tiêu úng Bình Sơn () được khởi công từ ngày 30/10 đến ngày 16/11/ 1963 hoàn thành. Kênh từ cống Xi Phông 17 chảy qua các xã Quỳnh Hoa, Quỳnh Hậu, Quỳnh Hồng, Quỳnh Bá, Quỳnh Hưng đổ ra Sông Thái. Công trình có chiều dài 8.250m, một công trình tiêu úng lớn đầu tiên của huyện với khối lượng đào đắp lên tới 120.000m3. Huy động nhân công toàn huyện, làm giữa ngày mùa, qua những cánh đồng chiêm trũng ngập bùn, tưởng như không thể làm được, nhưng với sức huy động cao, 16 nghìn dân công chỉ làm 16 ngày, trong đó Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim huy động hơn 200 dân quân do các đồng chí Văn Đức Trương (Quỳnh Hợp), Trần Bá Thái (Quỳnh Kim) đồng chí Bí thư Đảng bộ trực tiếp chỉ đạo. Công trình được hoàn thành mang lại một dấu ấn trong lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội trên quê hương. Kênh tiêu úng Bình Sơn hoàn thành đã có tác dụng tưới, tiêu cho 1.666 ha của 5 xã, vựa thóc của huyện: Quỳnh Hồng, Quỳnh Hậu, Quỳnh Bá, Quỳnh Ngọc, Quỳnh Hưng và cả một vùng rộng lớn như Quỳnh Đôi, Quỳnh Thanh, Quỳnh Yên đưa 215 ha hoang hoá vào sản xuất, 550 ha trước đây chỉ làm một vụ nay tăng lên hai vụ, đồng thời tưới, tiêu chủ động cho 1.815 ha.
Phát huy thắng lợi đó, Huyện uỷ Quỳnh Lưu quyết định khởi công xây dựng công trình thuỷ nông An Ngãi (), từ tháng 1/1964, Huyện uỷ cử ra Ban chỉ đạo công trường do đồng chí Thường trực Huyện uỷ làm Trưởng ban, Chủ tịch UBND huyện làm phó ban thường trực, các đoàn thể và những xã liên quan là những thành viên. Đập An Ngãi còn có tên gọi là khe Ba Tuỳ, thuộc xã Quỳnh Văn (nay là Quỳnh Tân). Công trình được thực hiện: đào đắp 262.000m3 đất, 14.000m3 đá, đổ 260 m3 bê tông. Mỗi ngày Huyện huy động 1.500 người. Xã Quỳnh Hợp thành lập Ban chỉ đạo do đồng chí Văn Đức Trương, làm trưởng ban, xã Quỳnh Kim thành lập Ban chỉ đạo do đồng chí Trần Bá Thái làm trưởng ban, các xã đã thường xuyên cắt cử 50 người thay nhau đi làm. Có những lúc công trình bước vào nước rút, mỗi ngày huyện điều động 12.000 người có mặt tại công trường. Con đập có trữ lượng chứa nước 5.800.000m3 nước, tưới cho 950 ha đồng ruộng bán sơn địa với hệ thống kênh mương kéo dài 29km qua các xã: Quỳnh Trang, Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim. Công trình còn là một quần thể sinh thái: nuôi cá, làm thuỷ điện nhỏ. Vừa phát huy nội lực lại được sự giúp đỡ của tỉnh, nên lúc đầu dự kiến làm 2 năm, nhưng chỉ sau 9 tháng thi công, công trình đã hoàn thành (tháng 9/1964). Dân cư 3 nông trang khai hoang Lê Lợi, 6 - 1, Đồng Mua, ổn định cho hàng trăm hộ chủ yếu của 3 xã: Quỳnh Bảng, Quỳnh Văn, Quỳnh Xuân định cư, để đến năm 1971 thành lập lên xã Quỳnh Tân.
Năm 1964, nhân dân xã Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim đã góp sức cùng cả huyện làm thuỷ lợi đã đào đắp được 2.214.284m3 đất, tăng gần gấp đôi năm 1963, bằng cả 3 năm 1960, 1961, 1962 cộng lại.
Trên một vùng quê thiếu nguồn nước ngọt tưới cho đồng ruộng, nhân dân các xã không ngừng phấn đấu làm thuỷ lợi để cải tạo điều kiện khắc nghiệt đó.
Những năm từ 1955-1964, nhân dân các làng đào giếng lấy nước chống hạn theo khẩu hiệu “vắt đất ra nước, thay trời làm mưa”. Dân làng Kim Lung đào giếng Đền và giếng Đồng Trương lấy nước tưới ruộng.
          5. Phong trào di dân đi xây dựng vùng kinh tế mới ở miền Tây của huyện
Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu: “Chủ trương đi xây dựng vùng kinh tế mới phía Tây của huyện”. Đại hội cũng chỉ ra những thành tích đạt được trong việc xây dựng các nông trang, các hợp tác xã khai hoang vùng Châu - Tam - Thắng, vùng Quỳnh Lâm - Hoàng Mai, đồng thời nêu lên những lệch lạc về nhận thức, cán bộ đảng viên còn chần chừ không chấp hành Nghị quyết. Bởi vì tư tưởng con người Việt Nam nói chung, con người xã Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim nói riêng, họ gắn bó với nơi chôn rau cắt rốn, quan hệ xóm làng ổn định, dù ở đó là nơi đất chật người đông, cuộc sống lam lũ qua các thế hệ đã gắn bó với hình ảnh “Cây đa, giếng nước, sân đình”, mà cha ông đã tạo dựng nên. Cuộc vận động dời dân đi xây dựng vùng kinh tế đối với vùng Hoàng Mai là nơi gặp nhiều khó khăn nhất. Huyện uỷ đã thành lập đoàn chỉ đạo đi về cơ sở để vận động, với quyết tâm của hai đảng bộ, cùng toàn thể hệ thống chính trị đã động viên được nhiều hộ đi khai hoang theo phong trào: “thanh niên đi miền Tây khai hoang” để giảm bớt mật độ dân số ở đồng bằng và đô thị.
Thời kỳ 1962-1964, Quỳnh Hợp lên đồng Lầy sau này thành lập lên nông trang tháng Tám, 30 hộ, do các ông Văn Đức Côn, Nguyễn Xuân Khang, Lê Công Hảo, Lê Đức Đượm... dẫn đầu. Ngọc Huy, 25 hộ lên vùng Ngọc Thắng. Kim Lung, 27 hộ lên vùng Lộc Ninh và nông trang tháng Tám (các hộ di dân lên địa điểm mới, nhưng về lạnh đạo, chỉ đạo vẫn trực thuộc các đảng bộ Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim).
Tại vùng đất mới, nhân dân trồng các loại cây như lạc, mía, đỗ, khoai, lúa nương, sắn (ban đầu nông sản chuyển về quê cũ, nâng cao số lượng hàng tiêu dùng và bán cho nhà nước). Năm 1964, HTX Tiền Phong bán cho nhà nước được 24 tấn lạc vỏ sản xuất được ở đồng Sặm, được huyện biểu dương và tặng phẩm.
Nhìn lại công cuộc vận động nhân dân di dân theo chủ trương của huyện là đúng: Việc phân bổ lực lượng được đồng đều giữa vùng đồng bằng và miền núi, tăng thêm diện tích canh tác. Mặc dù vậy, nhưng do cuộc vận động diễn ra nhanh, nên các đảng bộ, chi bộ cơ sở còn nặng về mệnh lệnh. Sự chuẩn bị cho dân đến nơi khai cơ lập nghiệp chưa thật chu đáo nên xẩy ra nạn phá rừng làm xâm hại đến môi trường sinh thái. Việc quy hoạch vùng chưa rõ ràng, trong lúc đó công tác hộ trợ kinh phí cho dân ít, nên đời sống nhân dân gặp muôn vàn khó khăn, thậm chí có gia đình phải trở về quê.
Chặng đường mười năm, từ khi miền Bắc hoàn toàn được giải phóng đến lúc hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, chi bộ (sau này là đảng bộ) có những bước tiến đáng kể: Xã được hình thành, Đảng bộ, chính quyền được củng cố, các đoàn thể bước đầu thích ứng sự lãnh đạo và chỉ đạo, nhân dân bước vào thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng tổ đổi công, tiến hành hợp tác hoá; phong trào cải tiến công cụ sản xuất, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cải tiến quản lý hợp tác xã, thúc đẩy phong trào làm thuỷ lợi, dời dân khai hoang; đẩy mạnh sự nghiệp văn hoá-xã hội đã từng bước ổn định góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Qua các phong trào đã xuất hiện nhiều nhân tố tích cực, xuất hiện trong thanh niên, phụ nữ và quần chúng nhân dân. Đảng bộ đã bồi dưỡng giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa và đạo đức cách mạng để kết nạp họ vào Đảng, làm tăng sức chiến đấu và lãnh đạo. Sự lớn mạnh về tư tưởng, chính trị, tổ chức, ổn định về đời sống, phát triển về kinh tế là tiền đề cho đảng bộ và nhân dân hai xã Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim bước vào cuộc chiến đấu quyết liệt trong sự nghiệp đấu tranh chống Mỹ cứu nước, bảo vệ miền Bắc chi viện cho miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc đưa cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
          II. Đảng bộ, nhân dân hai xã Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần cùng cả nước đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ lần thứ nhất (1965 - 1968).
Trước nguy cơ “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ bị phá sản, “Chiến lược chiến tranh cục bộ” của Mỹ được hình thành. Để tạo cớ, chúng dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ”, ngay từ 1964 cho máy bay, tàu chiến đánh phá một số vùng miền ở Bắc Việt Nam.
          1. Vừa sản xuất vừa chiến đấu, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ lần thứ nhất 1965 -1968.
Năm 1964, đế quốc Mỹ đã dùng không quân và hải quân đánh phá một số vùng ở miền Bắc nước ta. Cụ thể, ngày 5-8-1964, chúng đã sử dụng trong ngày 64 lượt máy bay ném bom Vinh, Cửa Hội (Nghệ An), sông Gianh, đèo Ngang (Quảng Bình), Hòn Gai (Quảng Ninh), Lạch Trường (Thanh Hoá).  Sau đó chúng liên tục cho máy bay, tàu chiến uy hiếp đánh phá nhà ga, cầu cống.
Ngày 5-12-1964, đoàn tàu quân sự chở hàng vào ga Hoàng Mai thì trời đã sáng, để bảo vệ an toàn hàng hoá, huyện đã huy động khẩn cấp lực lượng dân quân xã Quỳnh Thiện Quỳnh Vinh, Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim, Quỳnh Trang nhanh chóng cắt từng toa tàu đẩy ra rú Thông, Mỏ Kẽm cất dấu an toàn. Tại bến phà Hoàng Mai vào những ngày cuối năm địch đánh phá liên tục, có những ngày đoàn xe quân sự vào đến phà là trời sáng, xe không thể qua phà được, lực lượng dân quân Quỳnh Hợp phối hợp với lực lượng dân quân Quỳnh Thiện  đẩy xe sơ tán, cất dấu an toàn.
Xã Quỳnh Kim, Quỳnh Hợp trở thành khu vực cất dấu, trung chuyển hàng hoá và làm nơi ở cho bộ đội, hơn 70% số nhà của nhân dân dùng để làm kho tàng cất dấu lương thực, vũ khí, nơi ăn ở cho bộ đội.
Trước tình hình địch leo thang đánh phá, ngày 21-1-1965 Tỉnh uỷ Nghệ An thông qua đề án: “Tình hình nhiệm vụ chuyển hướng xây dựng kinh tế 2 năm 1965-1967”.
Quán triệt Nghị quyết của tỉnh và Trung ương, nhiệm vụ được Huyện uỷ Quỳnh Lưu đặt ra lúc này:
1. Tổ chức chiến đấu cũng như phòng tránh máy bay địch ném bom, bắn phá nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, đồng thời bảo vệ sản xuất.
2. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nông nghiệp, nhất là các công trình thuỷ lợi, đồng thời đẩy mạnh thâm canh.
3. Xúc tiến việc điều chỉnh sức lao động giữa các vùng trong huyện, ra sức nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp ().
Khâu then chốt tập trung hướng tới là xây dựng hậu phương vững mạnh, bảo đảm cuộc sống cho nhân dân, vừa chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho yêu cầu lâu dài xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời sẵn sàng chi viện sức người, sức của ngày càng nhiều cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Đảng bộ Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim đã quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của trên, dựa vào điều kiện thực tiễn của địa phương, để thống nhất ý chí hành động, được sự đồng ý của huyện, hai đảng bộ đã tiến hành Đại hội.
Đại hội đảng bộ xã Quỳnh Hợp lần thứ VII, Đại hội đảng bộ xã Quỳnh Kim lần thứ VI (tháng 5-1965, nhiệm kỳ 1965-1967). Đại hội tập trung bàn những vấn đề trong lúc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ gây ra ngày càng ác liệt nên phải chuyển nhanh sự chỉ đạo, lãnh đạo của đảng bộ sang thời chiến: Đẩy mạnh sản xuất, đưa tiến bộ khoa học vào nông nghiệp. Tập trung làm thuỷ lợi trên quê hương, huy động nhân lực đi làm các công trình của huyện của tỉnh. Tiếp tục vận động nhân dân di dãn dân khai hoang. Công tác phòng chống máy bay, làm đủ hầm hào để bảo đảm tính mạng, tài sản cho nhân dân; xây dựng lực lượng dân quân du kích, thành lập trung đội trực chiến sẵn sàng đánh trả máy bay địch; tiếp tục chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam.
          Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành xã Quỳnh Hợp và phân công:
Đồng chí: Vũ Xuân Phương, Bí thư Đảng ủy
Đồng chí: Bùi Quang Trọng, Phó Bí thư, Chủ tịch UBHC
          Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành xã Quỳnh Kim và phân công:
Đồng chí: Trần Bá Thái   tái cử Bí thư Đảng ủy
Đồng chí: Nguyễn An Nghìn, tái cử Phó Bí thư, Chủ tịch UBHC.
          Đại hội các đảng bộ đã diễn ra thành công tốt đẹp, tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đã đề ra với quyết tâm cao, toàn đảng, toàn dân xã Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim bước vào cuộc kháng chiến, chiến đấu và phục vụ chiến đấu: Trên địa bàn của xã Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim, những điểm cao, những chỗ hiểm yếu đều bố trí các đài, trạm quan sát, bố trí trận địa như: Cồn Lau, Cồn Sậy, Cồn Mít, núi Sui, động Kiêu (giữa động Kiêu ngoảnh về hướng tây bắc có câu khẩu hiệu lớn được quét bằng vôi: "Quyết tâm để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", cồn Chùa, rú Nhã mỗi xã có một trung đội trực chiến 30 người, khi cần tăng cường thêm, ngày đêm trực chiến 24/24 giờ, sẵn sàng phối kết hợp với bộ đội đóng trên địa bàn đánh trả kẻ thù. Quỳnh Kim, năm 1965-1966, Xã đội trưởng ông Trần Đức Mớt, năm 1967-1969, ông Bùi Khính. Trận địa trực chiến ở động Kiêu, động Hàn.
Quỳnh Hợp xã đội trưởng các ông Phạm Đình Quế, Lê Công Đoàn. Trận địa trực chiến ở núi Sui, ông Lê Công Viên đội trưởng trực chiến đảm nhiệm việc đánh kẻng  báo động cho dân, Dốc Dữa do ông Trần Tạo chỉ huy. Trung đội dân quân do Văn Đức Tạo chỉ huy, trung đội có 30 người, được trang bị một khẩu súng trung liên, 25 khẩu K44.
Vấn đề được hai đảng bộ và chính quyền quan tâm chỉ đạo: Làm thế nào để bảo đảm tính mạng, tài sản của nhân dân, hưởng ứng chủ trương của Huyện uỷ phát động: "Bảy ngày không ngủ, lo đủ hầm hào", đảng bộ, nhân dân Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim hưởng ứng sôi nổi, hàng vạn ngày công, hàng trăm mét khối gỗ được huy động cho việc làm hầm, hào. Từ nhà ra ngõ, đến đồng ruộng, trường học, trên dọc đường quốc lộ cứ 100 mét có 2 hầm chữ O, 200 mét có 2 hầm Triều Tiên. Trong suốt chiến dịch, nhà nhà đều có hầm, thôn này sang thôn khác có hào, hầm hào đạt chất lượng và có tính bền vững.
Tổ chức lực lượng, vừa sản xuất vừa chiến đấu:
Trước tình hình khẩn trương của chiến tranh, trung đội trực chiến 30 người, luôn được huy động, cơ động đi bảo vệ cầu Hoàng Mai, cứu hàng hoá ở ga Hoàng Mai và cả ngoài địa phương, do các đồng chí xã đội phó chỉ huy. Trung đội trực chiến có nhiệm vụ:  Nghe tiếng máy bay đánh kẻng báo động để dân xuống hầm ẩn nấp, lúc máy bay đi báo yên để dân lên.
Ban đêm túc trực ở trục đường quốc lộ 1A, báo đèn xanh cho xe chạy, báo đèn đỏ cho xe ẩn nấp. Các trận địa được bố trí tại Yên Phú gồm: Trận địa pháo 37 li của bộ đội chủ lực tại vườn mía; trận địa pháo 14,5 li tại cồn Hoa Màu, trận địa 12,7 li tại Nương Cồn. 90% số hộ dân đã nhường nhà ở cho bộ đội và Đại đội C240 công binh đóng trên địa bàn.
Theo dõi các vụ ném bom và ném bao nhiêu quả để báo về trung tâm chỉ huy. Các trung đội được trang bị Đại liên (súng trường Cơ-lô-nôv của Liên Xô), trung liên (Pơlinô) sau này được trang bị súng máy cao xạ 12,7 ly và nhiều súng trường CKC, K44.
Ngày 7-2-1965, đế quốc Mỹ tăng c­ường leo thang đánh phá miền Bắc chính thức gây ra cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với nước ta. Ngày 17-2-1965, chúng cho 3 tàu chiến thuộc Hạm đội 7 bắn một giờ liên tục vào Quỳnh Lập, mở đầu cho trận pháo kích đầu tiên của đế quốc Mỹ vào đất liền miền Bắc. Suốt cả năm 1965 c­ường độ ném bom đánh phá của đế quốc Mỹ vào Quỳnh Lư­u càng mạnh hơn.
Tháng 5-1965, đế quốc Mỹ đẩy cao mức độ leo thang đánh phá, trọng điểm là Quân khu IV, cán xoong Nghệ An, vùng chốt là Nam Thanh - Bắc Nghệ. Trong những ngày tháng năm này, vùng trời Quỳnh Lưu suốt ngày ầm ĩ tiếng máy bay gào thét, tiếng đại bác nổ chát chúa. Càng gần đến ngày sinh nhật Bác, chúng càng tăng cường đánh phá mạnh hơn. Lực lượng dân quân du kích cùng với bộ đội liên tục trực chiến 24/24h, chiến đấu đánh trả kẻ thù.
Ngày 15-5-1965, một tốp máy bay F4 của Mỹ dò vào do thám, trinh sát các mục tiêu vùng Bắc Quỳnh Lưu để chuẩn bị cho đợt oanh kích trong ngày. Dân quân du kích xã Quỳnh Trang nhờ cảnh giác cao với 6 viên đạn súng trường đã quật tan xác chiếc máy bay đi đầu chỉ huy. Bị đánh bất ngờ, mất chỉ huy nên chúng vội chuồn ra biển, bỏ cả mục tiêu quan sát, mở đầu cho việc săn, bắn máy bay của Mỹ trên toàn miền Bắc. Trong thời gian từ ngày 7/2/1966 đế ngày 3/2/1967, trên đất Quỳnh Lưu nói chung, Hoàng Mai nói riêng, đế quốc Mỹ đã sử dụng máy bay, tàu chiến đánh phá ác liệt ga, phà Hoàng Mai, các tuyến đường vận chuyển: Đường bộ, đường sông, đường biển, bệnh viện, trường học, thôn, xóm, đồng ruộng. Với những thủ đoạn, đánh bồi, đánh nhồi, đánh liên tục. Mỗi ngày bình quân 2000 quả bom, đạn các loại. Ví như ngày 22/10/1965, từ sáng đến tối chúng liên tục đánh phá, chúng huy động mỗi lần từ 5-7 chiếc, khói bom mù mịt, bom đạn nổ chát chúa. Quân và dân ta đã dũng cảm chiến đấu hạ 4 máy bay.
Cùng trong năm 1965, ngoài việc đánh phá các mục tiêu quân sự, chúng đã ném bom phà Hoàng Mai làm chết 2 người (ở Yên Phú): Anh Đậu Danh Vinh gác phà  Hoàng Mai và em Trần Thị  Lợi bị chết .
Tình hình đó đã đặt ra nhiệm vụ nặng nề cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải có quyết tâm cao để đánh thắng Mỹ. Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Ra sức hạn chế cuộc chiến tranh của địch, giành thắng lợi quyết định ở miền Nam”.
Ngày 3/2/1966, địch giảm lượng đánh phá trong ngày nhưng lại tập trung đánh đi, đánh lại nhiều lần vào các ga, cầu, phà Hoàng Mai. Có ngày địch sử dụng lai rai từ 160 - 164 lần/chiếc.
Ngày 6/3/1966, pháo kích vào làng Yên Phú làm cho ông Đậu Đức Xớn, Đậu Đức Đức bị thiệt mạng. Ngày 21/4/1966, rốc két (tên lửa), đánh bừa bãi vào đồng Thành (thôn 14 Tiền Phong), 2 chị chăn bò Bùi Thị Tờn và Lê Thị Nhoạn thiệt mạng.
Tháng 3/1966, trong lúc đang sản xuất ngoài đồng, bà Đậu Thị Danh, Nguyễn Thị Lởi, ông Đậu Viết Huê bị máy bay Mỹ ném bóm bị thương.
Tháng 5-1966, pháo kích của Mỹ vào thôn 13 làm vợ chồng Hồ Hữu Trương và Nguyễn Thị Mai bị chết.
“Ngày 1-6-1966, một ngày chiến đấu căng thẳng và ác liệt, đồng thời cũng là một ngày tổn thất to lớn đối với đơn vị pháo cao xạ. Khoảng 12 giờ trưa, tình thế thật là nguy nan, khói bom đạn phủ kín cả bầu trời che khuất toàn trận địa. Đạn nổ inh tai, chỉ còn nghe tiếng rít của động cơ máy bay và tiếng bon rền nổ rung chuyển cả trận địa. Trận này là trận thứ 4 trong ngày. Sau 15 phút chiến đấu ác liệt, tiếng bom, tiếng súng ngừng, đơn vị hy sinh 4 chiến sỹ và 7 chiến sỹ bị thương. Sau tiếng súng một đoàn đại biểu của cán bộ, nhân dân Hoàng Mai đã có mặt động viên thăm hỏi, cấp cứu người bị thương, vận chuyển các chiến sỹ hy sinh đưa về tuyến sau quả thật là cảm động" ().
Đặc biệt nghiên trọng là vụ địch đánh bom vào 8 giờ sáng ngày 25 tháng 4 năm 1966, lực lượng dân quân do xã Quỳnh Hợp tổ chức điều động đào hào giao thông và phục vụ chiến đấu bị bom Mỹ ném trúng làm 8 người hi sinh và 4 người bị thương.
Cao điểm các ngày từ 14 đến 18-6-1966, chúng tập trung đánh phá dứt điểm các mục tiêu ở Hoàng Mai, có ngày lên tới 20 trận tập trung vào khe Nước Lạnh, kênh Nhà Lê, cầu, nhà ga, phà Hoàng Mai.
Liên tục từ ngày 25-5 đến ngày 12-6-1966, địch đánh phá các chân hàng ở Hoàng Mai. Trong những trận đánh phá đó có 13 trận chúng dùng 38 quả tên lửa (vũ khí mới), đánh phá vào các tuyến đường: đường bộ, đường sắt, đường thuỷ. Vùng trọng điểm như cầu, phà, nhà ga, khe Nước Lạnh cũng bị chà đi xát lại nhiều lần.
Ngày 11/7/1966, địch ném bom vào cầu phao thuộc đường chiến lược từ Mai Hùng qua Quỳnh Dị, ông Hồ Sĩ Phợng thôn 3/4 bị chết.
Ngày 10/8/1966, địch ném bom xuống đồng Trưng (cây gạo), chị Hồ Thị Lởi  bị thiệt mạng (chồng Đinh Văn Phán).
Ngày 12/11/1966, địch ném bom xuống thôn Yên Lộc, tàn phá nhiều nhà ở, hai cháu bị thiệt mạng: Lê Thị Lựu, Lê Thị Hoe (em và con của ông Lê Công Tuyên nay gia đình đã chuyển lên ở Quỳnh Thắng). Liên tiếp những tháng cuối năm xẩy ra nhiều vụ có hai vụ nghiêm trọng, làm chết nhiều người, tàn phá nhiều nhà của, giết hại nhiều gia súc, gia cầm.
Ngày 16/12/1966, địch ném bom xuống khu vực dự trữ hàng trung chuyển Kim Ngọc, làm nhiều người bị chết, nhiều nhà của, hàng hoá bị tổn thất, nhiều gia súc, gia cầm. Số người bị chết: Trần Thị Túc (con là Trần Đức Thông), Ngô Trí  Khế (hiện còn cháu Ngô Thị Thuyên ở thôn 19), Trần Đức Mượt, Trần Đức Tập (hiện còn con Trần Đức Hồng ở xã Quỳnh Thắng), Nguyễn Văn Tứu, quê Yên Thành cán bộ phụ trách kho trung chuyển Kim Lung.
Dã man tàn bạo hơn vào ngày chủ nhật, ngày 21/12/1966, địch ném bom xuống làng Yên Trạch, tàn phá nhiều nhà của, giết nhiều gia súc, gia cầm, số người bị chết: Nguyễn Thị Vạn, Quách Thị Thân (hai mẹ con của ông Quách Hữu Kiệp nay ở thôn 16). Nguyễn Thị Hính (vợ của ông Lê công Dao có con là Lê công Dưu ở thôn 15), Nguyễn Văn Toàn (con ông Nguyễn Văn Tới nay ở thôn 16), Quách Thị Lý (con của ông Quách Hữu Duật nay ở thôn 16).
Ngày 26/12/1966, địch ném bom xuống núi Mí Ngan (dưới chân mộ tổ họ Văn), em Lê Thị Cảnh (em ông Lê Công Hoàng hiện ở thôn 16), bị chết.
Vượt qua những tang thương mất mát Đảng bộ, nhân dân hai xã Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim, dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ vẫn tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, trọng tâm là làm thuỷ lợi vừa và nhỏ. Phát huy sức mạnh tổng hợp của thời kỳ trước chiến tranh, cùng với nhân dân cả vùng Hoàng Mai, chúng ta khởi công xây dựng: đào mương tiêu úng đồng Vức dài 1km, xây cống đập Vức ở phía Tây Bắc (cống trong) để chủ động nước tưới, tiêu.
Bước sang năm 1967, địch tăng cường đánh phá mạnh hơn, 6 tháng đầu năm địch đánh vào địa bàn xã Mai Hùng trên 300 trận, không kể địch đánh phá phà Hoàng Mai, đường quốc lộ 1A, cầu, cống Hói Bãi.
          Ngày 08/4/1967, «ng Ngô Trí Toằng vận chuyển hàng hóa bị thiệt mạng tại Quỳnh Thuận (con lµ Ngô Trí  Phưng).
Vụ pháo kích hơn nửa giờ vào làng Yên Phú, gây hậu quả nghiêm trọng, phá hoại nhiều nhà của, nương vườn, giết hại nhiều gia súc, gia cầm và cướp đi tính mạng của các con, cháu cùng chung nấp một hầm đó là: Trần Đức Cu, Trần Văn Dũng, Hồ Đức Lập, Trần Văn Lan, Đậu Đức Lĩnh.
Ngày 18/4/1967, chúng ném bom xuống khu vực phà, cầu Hoàng Mai, bà Bùi Thị Thanh (vợ của ông Ngô Trí Thát), bị chết.
Ngày 6/5/1967, dưới sự chỉ huy của đồng chí Văn Đức Tạo, Đại đội trưởng, được sự hộ trợ của đơn vị 37 li ở Cồn Lau (Quỳnh Hợp), dân quân, dân làng Yên Phú, bộ đội công binh đã bắt được tên giặc lái Mỹ ở khu vực làng Yên Phú.
          Những ngày cuối năm, địch tăng cường đánh mạnh mẽ hơn vào các làng, xóm. Ngày 17/10/1967, chúng đánh phà Hoàng Mai, bom trệch hướng rơi vào làng Yên Phú số người bị chết: Đậu Vượng, Hoàng Điền, Hoàng Thị Nghiêm...
Không quản ngại hy sinh mất mát, Đảng bộ nhân dân Quỳnh Kim, Quỳnh Hợp (Mai Hùng), đã phấn đấu vươn lên. Chưa có thời kỳ nào, kể cả thời bình, phong trào làm thuỷ lợi ở Mai Hùng và cả vùng Hoàng Mai được dấy lên mạnh mẽ như thời kỳ những năm 1965-1968. Vấn đề thuỷ lợi luôn được Đảng bộ và nhân dân quan tâm, không những trong chiến tranh mà ngay cả ngày nay, mong muốn là làm sao đủ nước để sinh hoạt, sản xuất.
          Những năm 1966 -1967, đập đồng Mò (Quỳnh Hợp) được xây dựng, đào đắp 12.0000m3 đất, trữ lượng nước 100.000m3, lưu vực (vùng phụ nước) 500 ha, đồng thời đắp đê bao dài 2km.
Năm 1967, đắp đê 2 ngăn mặn, dài 1km (gọi là đập Hói Bãi) lưu vực phụ nước 1.580 ha. Lượng nước 200.0003, diện tích được bơm tưới: 40 ha nhằm cải tạo toàn bộ diện tích đê 2 vào trồng lúa, nuôi trồng thủy sản (cá tôm tự nhiên) sau 3 tháng thi công đã hoàn thành, là một công trình lớn của bà con xã viên hợp tác xã Toàn Thắng, Quỳnh Hợp trong thời kỳ này.
Ban quản trị Hợp tác xã Toàn Thắng lúc này gồm:
Ông Hồ Sỹ Nguyệt, Chủ nhiệm
Ông Đinh Thị Thảo, Phó Chủ nhiệm kế hoạch.
Ông Đậu Việt Dựa, Phó Chủ nhiệm tài vụ.
Ông Đậu Thị Toàn, Kế toán.
Ông Đậu Viết Tuấn, Quản trị ngành nghề.
Ông Văn Đức Nho, Quản trị phụ trách quân sự.
Sơ kết 3 năm chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc của đế quốc Mỹ, Đại đội 2 Hợp tác xã Toàn Thắng được UBHC tỉnh Nghệ An tặng giấy khen, Tỉnh đội Nghệ An xếp loại là đơn vị dân quân Quyết Thắng, bà Đinh Thị Toàn được tặng thưởng Huân chương chiến công của Bác Hồ. Cũng năm này đắp đê khe lở ở Mỹ Xuyên, nhằm ngăn mặn, cải tạo đồng ruộng phía Đông xã.
          Trong lĩnh vực sản xuất: Vấn đề áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, làm tăng năng suất cây trồng cũng được đảng bộ quan tâm lãnh đạo. Chiến tranh vẫn kéo dài, các biện pháp áp dụng vào lĩnh vực nông nghiệp càng được chú trọng hơn. Trước đây chỉ cày một lượt, nay tăng lên 2 lượt. Từ năm 1965, áp dụng cấy chăng dây thẳng hàng, thay giống cũ bằng giống mới có năng suất cao. Giống được xử lý, đất mạ được khoanh vùng, lượng phân bón được tăng lên 7 tấn/ha. Lượng bèo thả những nơi chân ruộng có nước. Bởi vậy năng suất lúa tăng lên rõ rệt, bình quân mỗi ha đã đạt 2.013kg/ha/vụ.
Việc điều chỉnh lực lượng lao động được đặt ra một cách bức thiết, bởi vì mật độ dân số và sự phân bố đất đai trong địa phương không đều làm hạn chế đến việc khai thác tiềm năng của địa phương, nhất là trong lĩnh vực nông thôn nông nghiệp.
          2. Công tác dời dãn dân trên địa bàn quê hương.
Nhằm mục đích quan trọng về tăng diện tích "người gần ruộng, ruộng gần người", khai thác thế mạnh kinh tế vùng đồi, giảm mật độ dân số các làng cũ và an ninh quốc phòng, từ năm 1965-1975, việc di dời dãn dân từ làng đến các khu vực ven đồi núi, diễn ra sôi nổi ở cả 3 vùng trong xã.
Vùng Kim Lung lên vùng chân động Kiêu thành các thôn 6 và thôn 7 (Bái Hạ) và (thôn 19).
Vùng Yên Phú lên vùng cửa Hóc năm 1968 có 21 hộ, thôn18 rú Nhã (1969) có 30 hộ (thôn 8 và 9).
Vùng Yên Lộc, Yên Trạch lên vùng chân núi Sứ từ eo Mò đến Bãi Vông, Đội Vấn, cồn Mít trên 60 hộ (ban đầu) thành các thôn 14, 15, 16. Năm 1977, dời tiếp một số dân làng Kim Lung, Yên Lộc, Yên Trạch thành lập thôn 17 ở vùng đồng Chõ.
Việc dời dãn dân, phân bố lại địa bàn cư trú của dân cư trên đất quê hương đạt kết quả tốt có ý nghĩa trong việc phát triển kinh tế, đời sống của nhân dân, mà còn góp nhiều kinh nghiệm vào thành công của huyện Quỳnh Lưu trong chủ trương dời dân lên vùng đồi. Việc di dân khai hoang mở rộng diên tích đã mang lại kết quả. Đến năm 1966 -1967, bình quân đất canh tác/đầu người 2 xã nâng lên 1 sào 7 thước so với 1 sào/ người trước khi di dân khai hoang.
Trồng cây và bảo vệ rừng là một trong những nhiệm vụ thường xuyên ở địa phương. Trước và trong chiến tranh chống Mỹ, nhân dân quê hương đã lập nhiều thành tích trên lĩnh vực này. Thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch về Tết trồng cây (năm 1959), hàng năm vào ngày mồng 2 Tết, nhân dân các làng trong xã tham gia trồng cây. Những năm chiến tranh, tất cả mọi tuyến đường trong xã, liên xã, đều rợp bóng cây xanh (chủ yếu là bạch đàn và phi lao). Điều đó có ý nghĩa lớn không chỉ về giá trị kinh tế, cải tạo môi trường mà còn có giá trị nguỵ trang, che mắt địch, cung cấp lá cho trận địa, gỗ cung cấp cho đảm bảo giao thông vận tải, làm hầm trú ẩn.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, lời kêu gọi của Bác Hồ đã thấm sâu vào mỗi con tim, khối óc của người Việt Nam. Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Kim, Quỳnh Hợp quyết đem hết tinh thần nghị lực ra để thực hiện lời kêu gọi của Bác Hồ. Trong giới trẻ có “phong trào 3 sẵn sàng" được Trung ương Đoàn phát động đó là: sẵn sàng khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, học tập trong bất cứ tình huống nào; sẵn sàng đi bất cứ nơi nào, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần đến.
Phong trào đã thôi thúc hàng trăm thanh niên lên đường nhập ngũ, đi thanh niên xung phong, tình nguyện phục vụ cho bộ đội, chiến đấu trên quê hương. Mỗi người đều tình nguyện tham gia đóng góp vào cuộc chiến.
          Phong trào “Ba đảm đang” được Trung ương Hội phụ nữ Việt Nam phát động ngày 19/3/1965, được nữ giới ở trong mọi lứa tuổi hưởng ứng với nội dung: đảm đang sản xuất và công tác thay chồng, con, anh em đi chiến đấu; đảm đang công việc gia đình cho chồng, con, anh em yên tâm chiến đấu, khuyến khích chồng, con anh em tòng quân và phục vụ lâu dài trong quân đội; đảm đang phục vụ chiến đấu, tham gia dân quân tự vệ, tập luyện quân sự để sẵn sàng chiến đấu, tham gia dân quân tự vệ khi chiến đấu.
      Hàng trăm phụ nữ Quỳnh Kim, Quỳnh Hợp, sau khi học tập nội dung đã đăng ký tình nguyện ghi tên thực hiện phong trào “Ba đảm đang”. Tiêu biểu là các chị: Nguyễn Thị Mỹ,  Ngô Thị Phỉa, Đậu Thị Mận, Văn Thị Lĩnh, Lê Thị Chuôi, Đậu Thị Phưng... làm Bí thư Hội Phụ nữ, Phó Chủ tịch UBHC, Chủ nhiệm hợp tác xã. Nhiều chị em làm thư ký đội trưởng sản xuất, tổ trưởng trực chiến. Có những chị em lâu nay bình thường, nhưng qua học tập đã tỏ ra hăng hái xung phong, quan tâm đến công việc chung của tập thể. Hầu hết họ là những người mẹ, người chị, nàng dâu, mẫu mực tự nguyện đăng ký sẵn sàng thay thế cho chồng, con, anh em lên đường chiến đấu.
Công tác giao thông vận tải trong thời chiến đặc biệt quan trọng, nó như mạch máu trong một cơ thể con người. Quỳnh Kim, Quỳnh Hợp là nơi yết hầu, cửa ngõ của Nghệ An, (cầu phà Hoàng Mai, đường quốc lộ 1A, cầu Trịch đường sắt, kênh Nhà Lê), là trọng điểm đánh phá của không quân, hải quân của đế quốc Mỹ. Hàng vạn, hàng ngàn tấn bom đạn được chúng dội xuống nơi đây. Nhưng bất chấp những hy sinh mất mát, dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, nhân dân xã Quỳnh Kim, Quỳnh Hợp đã thể hiện quyết tâm: “xe chưa qua nhà không tiếc”, “nhà tan cửa nát cũng ừ, đánh tan giặc Mỹ, cực chừ, sướng sau”. Tất cả để rồi “phà Hoàng Mai, đêm đêm xe cứ vượt, chở đạn bom ra chiến trường”. Nhiều nhà dân còn là nơi  dành cho các cơ quan Nhà nước đóng trên địa bàn, làm nhà kho cất dấu vũ khí lương thực, nơi làm việc của các ngành, các cấp, bộ đội, thanh niên xung phong.
Chiến tranh là thế, nhân dân không một phút nghỉ ngơi, thi đua làm kịp thời vụ, chăm sóc vật nuôi, cây trồng, di dời, dãn dân, thuỷ lợi, trực chiến, chiến đấu rồi những công việc đột xuất khác. Ví như: tháng 9-1965, Trạm thuỷ sản của Nhà nước đóng tại Quỳnh Phương có nguy cơ sẽ bị máy bay Mỹ huỷ diệt, trước tình hình đó huyện đã chỉ đạo cho các đảng bộ tập trung di chuyển bằng mọi cách để cứu hàng. Thực hiện mệnh lệnh của trên, bằng tất cả phương tiện hiện có: xoong nồi, thúng mủng chỉ trong 10 ngày nhân dân Quỳnh Kim, Quỳnh Hợp cùng với cả vùng Hoàng Mai đã di chuyển, cứu được 2.000 tấn chợp mắm đến nơi an toàn, bảo quản chu đáo, sau đó giao lại cho Nhà nước. Việc bảo đảm tính mạng, tài sản cho nhân dân được các đảng bộ chỉ đạo quyết liệt: “mở rộng nhà bếp, thu xếp nhà to, chăm lo hầm hào”, “Hầm hào chưa đủ ăn ngủ không yên”.
Nhiều gia đình dỡ nhà để làm hầm chữ A kiên cố, công tác nguỵ trang được làm chu đáo. Để bảo đảm cho con em tới trường, các lớp học được sơ tán tới nơi an toàn và lớp học được làm theo kiểu bán âm, có hầm hào trú ẩn. Nhờ vậy mà một thế hệ học sinh sau này được trưởng thành, trở thành cán bộ lãnh đạo, sỹ quan cao cấp.
Phong trào trồng cây xanh, nguỵ trang che mắt kẻ thù được toàn dân tham gia hưởng ứng. Trên dọc 2 bên đường quốc lộ 1A, dài trên 1km đều được trồng cây phi lau, xà cừ, trên các trận địa trồng chuối, bạch đàn không những cây xanh che mắt kẻ thù mà còn tạo ra cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp trong thời chiến.
Sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Đêm đêm lực lượng thanh niên cùng với bộ đội đào công sự, kéo pháo, có những đêm mưa tầm tã, công việc kéo dài đến hết đêm. Các em trong độ tuổi thiếu niên góp nhặt từng mảnh giẻ để góp phần cùng bộ đội lau chùi súng đạn, lập nên chiến công. Từng cành lá nguỵ trang, gánh nước tưới cho cây, cho công sự pháo góp phần cùng toàn huyện đóng góp 15.631 gánh lá nguỵ trang, 34.458 lượt kéo pháo. Quả thực là cuộc chiến tranh “toàn dân, toàn diện đánh đế quốc Mỹ”.
Trong khói lửa của cuộc chiến, công tác y tế chăm lo sức khoẻ cho nhân dân và kịp thời cứu người bị thương khi địch oanh kích được đặt ra và được bố trí khắp mọi nơi. Năm 1956 thành lập trạm y tế hộ sinh xã. Từ năm 1956, 1957 đến 1964 các phong trào phòng bệnh, xây giếng nước gia đình, làm nhà vệ sinh phát triển trong xã, đã góp phần tăng cường sức khoẻ nhân dân. Trong chiến tranh, ngoài việc chăm sóc sức khoẻ, công tác y tế còn đảm nhận nhiệm vụ cứu thương cho nhân dân và các đơn vị bộ đội làm nhiệm vụ trên địa bàn quê hương.
Bệnh viện dã chiến của đội cầu 204 (đội điều trị cơ động) đóng tại làng Yên Trạch (Tiền Phong) đã sơ cứu điều trị cho bộ đội, nhân dân trong thời kỳ chiến tranh.
      Những năm 1973-1975, địa phương có phong trào trồng cây thuốc chữa bệnh bằng thuốc đông y theo mô hình trạm y tế Quỳnh Giang. Tại khu vực trạm xá xã có vườn trồng thuốc nam. Nhiều gia đình trồng cây thuốc trong vườn nhà mình. Điều đó đã mang lại hiệu quả đáng kể trong việc phòng và chữa bệnh của nhân dân.
      Trong chiến tranh, niên khoá 1965- 1966, có trường cấp II, bao gồm lớp 5 và lớp 6 học sinh được chuyển từ các trường Quỳnh Vinh, Quỳnh Thiện về và các em ở Quỳnh Trang xuống học. Hiệu trưởng đầu tiên của trường là thầy Lê Văn Khánh (người ở Nam Đàn). Khoá học 1967- 1968, cô Văn Thị Kim Liên (Quỳnh Dị) làm Hiệu trưởng, thời kỳ này chiến tranh phá hoại diễn ra ác liệt, các lớp học được xây dựng ở những nơi sơ tán khác nhau, lúc ở chân núi Sui thôn 12, khi chuyển về rú Đội Vấn thôn 16, lớp có hầm, hào trú ẩn bao quanh. Học sinh đi học tránh giờ cao điểm (giờ giặc Mỹ thường ném bom bắn phá) và thường đội mũ rơm để tránh mảnh bom đạn địch. Niên khoá 1968- 1969 và 1969-1970, lúc nhập xã Mai Hùng, các cháu ở Quỳnh Kim học từ các nơi khác chuyển về hình thành 2 lớp 5 có khoảng 100 em (do cô Lê Thị Lục làm Hiệu trưởng), lớp 6 có 61 em, lớp 7 có 50 em, do thầy Trần Chế làm Hiệu trưởng. Trường được xây dựng trên đỉnh rú Nhả bằng tranh tre với 4 phòng, 3 phòng học và 1 văn phòng. Tuy hoàn cảnh chiến tranh, gian khổ nhưng chất lượng và số lượng học tập vẫn được đảm bảo. Số học sinh vào cấp 3 toàn xã Mai Hùng trong chiến tranh mỗi năm 20 em là con số cao lúc bấy giờ.
      Kết thúc cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất với bao thử thách nghiệt ngã: Vừa sản xuất, vừa phục vụ chiến đấu và sẵn sàng đánh bại địch khi chúng xâm phạm quê hương. Vượt lên tất cả đảng bộ và nhân dân đã hoàn thành nghĩa vụ của cấp trên giao.
      III. Đảng bộ và nhân dân xã Mai Hùng khôi phục kinh tế, chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ, góp phần cùng cả nước giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc (1969-1975).
      1. Góp phần khôi phục kinh tế (1969 -  4/1972)
Bị thua ở chiến trường miền Nam, Chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ nguy cơ bị thất bại, cùng lúc dư luận tiến bộ trên thế giới phản đối quyết liệt cuộc chiến tranh phi nghĩa của đế quốc Mỹ gây ra ở Việt Nam. Tổng thống Mỹ Giôn Xơn buộc phải tuyên bố ngưng chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc Việt Nam và phải ngồi vào bàn thương lượng chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam vào ngày 30/10/1968.
Đầu tháng 3/1969, Đảng bộ xã Quỳnh Hợp và Quỳnh Kim được sát nhập lấy tên là Đảng bộ Mai Giang (lần thứ I). Đảng bộ lâm thời bao gồm:
     Đồng chí: Phạm Đình Quế, Bí thư Đảng ủy
Đồng chí: Nguyễn Đình Đoán, Phó Bí thư, trực đảng
Đồng chí: Nguyễn An Nghìn, Chủ tịch UBHC
      Ngày 22/3/1969, Đại hội Đảng bộ xã Mai Giang lần thứ II được tiến hành.
      Khi nhập xã có tổng diện tích canh tác 1.490 mẫu. Tổng số lao động 1143 lao động, trong đó lao động chính 1060. Dân số 3 khu vực có 706 hộ, 3.368 khẩu, nam 1.571 người, nữ 1.797 người. Khu vực Toàn Thắng có 856 khẩu, nam 385, nữ 471. Khu vực  Tiền Phong 1002 khẩu, nam 470, nữ 532. Khu vực Kim Ngọc 1510 khẩu, nam 716, nữ 794. Đảng viên dự đại hội có 137 đồng chí, trong đó có 14 nữ,
      Đồng chí Hồ Đình Tư, UVBTV Huyện uỷ về dự và chỉ đạo Đại hội, đồng chí phát biểu và có hai câu thơ chúc mừng:
"Sông Mai sóng nổi, biển gầm
Ra quân quét hoá, xanh rừng điền thanh"
Đại hội đề ra mục tiêu: Lúa chiêm xuân 250 mẫu, lúa mùa 800 mẫu. Khoai xuân 200 mẫu, khoai mùa 120 mẫu, lạc thu 20 mẫu, rau các loại 10 mẫu, mía 20 mẫu, cói 20 mẫu. Đại hội cũng bàn đến các phương án hợp nhất các hợp tác xã: HTX mua bán, HTX tín dụng, HTX nông nghiệp, cũng như các đoàn thể trong hệ thống chính trị, tiến hành xây dựng cơ sở vật chất để hợp nhất các trường học, trạm xá. Đại hội đã nhất trí lấy tên là xã Mai Hùng.
Đại hội bầu ra BCH và được phân công:
Đồng chí: Phạm Đình Quế, Bí thư Đảng ủy
Đồng chí: Nguyễn Đình Đoán, Phó Bí thư trực đảng
Đồng chí: Nguyễn An Nghìn, UVTV, Chủ tịch UBND
Ngày 21/4/1969, theo quyết định số 201/NV, của Bộ trưởng Nội vụ tên xã Mai Hùng ra đời từ đây. Đảng bộ và nhân dân xã Mai Hùng bước vào một thời kỳ mới.
Ngày 21/7/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Đảng bộ tỉnh Nghệ An. Với tất cả tấm lòng nhân ái thiết tha, Bác động viên đồng bào, chiến sỹ, cán bộ, đảng viên, đoàn viên đã chiến đấu, phục vụ chiến đấu tốt, làm tốt nhiệm vụ giao thông vận tải, đi bộ đội thanh niên xung phong và sản xuất tốt. Bác khen Nghệ An sản xuất giỏi, trong đó biểu dương hợp tác xã Phú Thành (Quỳnh Hậu): "Về sản xuất, mặc dù chiến tranh, năm 1968 đã có 60 hợp tác xã đạt năng suất lúa từ 5 tấn trở lên trên một héc-ta, riêng hợp tác xã Phú Thành (huyện Quỳnh Lưu) đạt 6 tấn lúa, lại được một vụ khoai 14 tấn trên một héc-ta".  Bác cũng không quên nhắc nhở đồng bào và chiến sỹ tỉnh nhà phải cố gắng nhiều hơn nữa, vì kinh tế Nghệ An tiến còn chậm. Bác ân cần chỉ ra những việc làm tới, trong đó nhấn mạnh: “Một điều phải luôn luôn nhớ là cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đang ở vào thời kỳ quyết liệt. Đế quốc Mỹ đã bị thua đau nhưng còn rất ngoan cố. Quân và dân ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu giữ vững công tác phòng không sơ tán, củng cố hầm hào. Cố góp nhiều công sức hơn để cùng quân và dân cả nước đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược”. Với lòng yêu thương sâu nặng với quê hương, Bác kết thúc lá thư bằng những lời tâm huyết: "Nghệ An là một tỉnh rộng lớn, có tài nguyên phong phú, có nhân dân cần cù lao động và rất cách mạng. Rất mong đồng bào và đồng chí tỉnh nhà ra sức phấn đấu làm cho Nghệ An mau trở thành một trong những tỉnh khá nhất ở miền Bắc". Những lời dạy dỗ ân cần, niềm mong ước thiết tha sâu lắng của Bác được thể hiện qua lá thư ngắn gọn đã trở thành tài sản vô giá đối với cán bộ, nhân dân xã nhà.
Trong lúc Đảng bộ, nhân dân Quỳnh Lưu đẩy mạnh việc học tập, làm theo thư Bác, dồn sức thực hiện nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế, chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng chiến đấu, khi đế quốc Mỹ gây lại chiến tranh phá hoại, thì vào lúc 9 giờ 47 phút ngày 2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của Đảng và dân tộc ta, một chiến sỹ kiên cường của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc đã: “Từ biệt thế giới này, đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê nin và các vị cách mạng đàn Anh khác”. Người để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta bản Di chúc bất hủ. Thương tiếc, đau buồn đè nặng lên tâm trí của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Từ em bé đến cụ già, từ vùng biển đến núi cao các bản làng dân tộc, ai cũng tìm cách riêng của mình để tang, tưởng nhớ Bác.
Biến đau thương thành hành động cách mạng, Đảng bộ và nhân dân  Mai Hùng học tập thư và Di chúc của Người, dấy lên phong trào “Đền ơn Bác”.
Phong trào đã nhanh chóng ăn sâu, lan rộng đến mọi tầng lớp nhân dân, nhất là trong các cụ người cao tuổi, vườn cây các cụ phụ lão phát triển đã trồng nhiều cây và gieo ươm cây giống cung cấp cho các vùng trong và ngoài xã. Ngoài cây lấy gỗ, vườn các cụ phụ lão còn trồng nhiều loại cây ăn quả quý như nhãn, mít, xoài, dứa, chè. Một số đoàn khách trong và ngoài huyện đến tham quan học tập kinh nghiệm.
Vườn thôn 1 (Mỹ Xuyên) do cụ Nguyễn Đình Phôn, làm tổ trưởng.
Vườn thôn  6 (Kim Lung) do cụ Ngô Kim Liên, làm tổ trưởng.
Vườn thôn 14 (Tiền Phong) do cụ Nguyễn Xuân Kỷ, làm tổ trưởng.
Vườn thôn  8-9 (Toàn Thắng) do cụ Văn Đức Tường, làm tổ trưởng.
Vườn thôn 12 (Yên Lộc) do cụ Văn Đức Hịnh, làm tổ trưởng.
Trên các công trường thuỷ lợi, khai hoang phục hoá, giải phóng đồng ruộng. Đảng bộ và nhân dân xã Mai Hùng cùng với nhân dân toàn tỉnh, huyện đã tiến quân mạnh mẽ vào các công trình thuỷ lợi như: Cống Thau (Yên Thành), cống Hiệp Hoà (Đô Lương)...
Lòng thương nhớ Bác dồn lên đôi tay, đôi vai; mặc dù bữa ăn còn đạm bạc, nơi ở còn đơn sơ, lao động nặng nhọc, thời tiết lại khắc nghiệt thi công trong mùa mưa rét, nhưng bất cứ ở công trường nào, lực lượng thanh niên Mai Hùng vẫn vượt các chỉ tiêu trên giao.
Trên mặt trận sản xuất, sản lượng lương thực tăng do làm tốt công tác thuỷ lợi và áp dụng khoa học kỹ thuật. Giá trị tổng sản lượng tăng, tích luỹ hợp tác xã ổn định, đời sống nhân dân tạm ổn, hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước, mức ăn bình quân năm 1969 là 15,7 kg, năm 1970 là 18 kg/người/tháng.
Hợp tác xã bậc cao được phát triển, các HTX nhỏ (Tiền Phong, Toàn Thắng, Kim Ngọc) được sát nhập có tên  HTX Thống Nhất xã Mai Hùng. Đồng chí: Ngô Trí Hai, Chủ nhiệm.
 Ngày 18/5/1970, Đại hội Đảng bộ xã Mai Hùng lần thứ III được tiến hành, đại hội đánh giá kết quả đạt đựơc năm qua và đề ra phương hướng nhiệm vụ cho thời gian tới: Đó là tranh thủ thời gian ngưng chiến, toàn đảng, toàn dân tích cực củng cố giao thông, tiến hành làm công tác giao thông thuỷ lợi, đắp bờ vùng, bờ thửa, tại các cánh đồng Mò, đập Vức, cồn Sậy, đồng Mít, quyết tâm phấn đấu vụ chiêm xuân đạt 80 kg/ sào, lúa mùa đạt 105 kg/ sào, đất 5% đạt 105kg/sào, khoai lang đạt từ 500 đến 550 kg/ sào. Chăn nuôi: lợn nái 200 con, lợn đực giống 20 con, lợn thịt xuất chuồng bình quân hộ đạt 50 kg, phấn đấu cả xã đạt 40 tấn, làm nghĩa vụ cho nhà nước  50%, còn lại cung cấp cho xã viên HTX. Xây dựng cơ sở vật chất tiếp tục được quan tâm, đã xây dựng: Nhà kho sân phơi, trường học, trạm xá, cửa hàng. Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Đồng chí: Nguyễn An Nghìn, Bí thư Đảng ủy
Đồng chí: Lê Công Tuyên, UVTV tổ chức
Đồng chí: Bùi Quang Trọng, UVTV- Chủ tịch UBHC
Cùng với cả huyện việc đẩy mạnh sản xuất, vấn đề giao thông được chú trọng đề phòng địch đánh phá trở lại.
Huyện thành lập Ban chỉ đạo tác chiến Phòng không do đồng chí Nguyễn Hườu, quyền Chủ tịch làm Trưởng ban.
Ban chỉ đạo các cụm tác chiến gồm 5 cụm: Cụm lạch Quèn, cụm Bãi Ngang, cụm Cầu Giát, cụm Châu - Tam - Thắng, cụm lạch Cờn (Hoàng Mai): đồng chí Hoàng Ngọc Điệt, Phó Chủ tịch làm cụm trưởng.
Kế hoạch bảo đảm giao thông trên quốc lộ 1A và những trọng điểm do Quân khu IV chỉ đạo:
Cầu Hoàng Mai (Quỳnh Thiện, Mai Hùng), ở km 391 + 60 cầu dài 81,6m, rộng 3,5m, hiện có đá hộc 80 m3  khí tài vận chuyển 12 thuyền, phà 2 chiếc trọng tải 15 tấn. Nhân lực đại đội C240 công binh đảm nhiệm, ngoài ra có lực lượng thanh niên xung phong D303, D43, lực lượng dân quân Mai Hùng, do đồng chí Bùi Văn Khính chỉ huy.
Cầu Hói Bãi (Mai Hùng) ở km 391+100, dài 3m, rộng 6m, cao 2m, vật liệu cần có: đá hộc 40m3,  nhân lực điều lực lượng dân quân 2 xã Quỳnh Văn và Quỳnh Xuân, có sự hỗ trợ của dân quân xã Mai Hùng.
Tháng 4/1971, trước nguy cơ địch gây ra chiến tranh phá hoại lần thứ hai, Đại hội Đảng bộ lần thứ IV được tiến hành.
Đại hội đánh giá kết quả hai năm nhập xã và chỉ ra những tồn tại khó khăn. Mục tiêu, nhiệm vụ chính lúc này vẫn lấy mặt trận nông nghiệp làm hàng đầu, tập trung quÐt hoá, khai hoang mở rộng diện tích, thâm canh lúa, màu, cung cấp đủ lương thực, làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước. Thực hiện tốt việc trồng cây, gây rừng, phát triển thêm nghề phụ: Lò gạch, ngói, nung vôi, vận tải. Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Đồng chí: Lê Công Tuyên, Bí thư Đảng ủy
Đồng chí: Nguyễn An Nghìn, Phó Bí thư - Chủ tịch UBND
Đồng chí: Văn Đức Đa, UVTV, trực đảng
    2. Chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ (tháng 4/1972-  tháng 12/1972).
    Bước sang năm 1972, trước những đòn tấn công chiến lược của quân và dân ta ở miền Nam, đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai liên tiếp bị thất bại trên chiến trường miền Nam. Cuộc chiến tranh sắp sửa bước vào giai đoạn kết thúc. Hòng giành thế mạnh trên bàn đàm phán tại Hội nghị bốn bên ở Pari, chúng đã tráo trở lật lọng gây trở lại cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc nước ta.
Tháng 2/1972, Đảng bộ tiến hành Đại hội lần thứ V, Đại hội quán triệt những nội dung Nghị quyết của đại hội đảng cấp trên, nêu quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ, nếu chúng gây ra chiến tranh phá hoại. Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Đồng chí: Bùi Văn Khính, Bí thư Đảng uỷ
Đồng chí: Nguyễn An Nghìn, Phó Bí thư- Chủ tịch UBHC (sau đó huyện điều động đi chỉ đạo dân công hoả tuyến, đồng chí Ngô Trí Vơng, Bí thư chi bộ cơ sở lên thay)
Đồng chí: Văn Đức Đa, UVTV, trực đảng
Trong thời kỳ này HTX Thống Nhất được tách ra làm 3 HTX:
HTX Tiền Phong, ông Bùi Văn Viễn làm Chủ nhiệm
HTX Toàn Thắng, ông Đinh Văn Chi làm Chủ nhiệm
HTX  Kim Ngọc, ông Ngô Trí Hai, làm Chủ nhiệm
Ngày 6/4/1972, đế quốc Mỹ gây ra cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc. Ngày 11/4/1972, đế quốc Mỹ cho nhiều tốp máy bay ném bom, đánh phá liên tục, ồ ạt vào huyện Quỳnh Lưu. Đặc biệt, lúc 12 giờ 10p ngày 17/4/1972, lực lượng dân quân hai xóm Đồng Thanh, Đồng Minh (Quỳnh Lập) đã cùng 24 pháo binh Nghệ An bắn cháy một tuần dương hạm của Mỹ. Tính đến cuối tháng 4/1972, cả 39 xã đều bị máy bay địch bắn phá, có xã bị đánh hàng trăm trận. Năm 1972, xã đội trưởng Mai Hùng là ông Đặng Văn Dấp. Các đơn vị trực chiến được trang bị súng máy cao xạ 12 ly 7 (vùng phía đông, giáp biển được trang bị vũ khí chống địch đổ bộ). Các tổ trực chiến đã phối hợp chiến đấu với nhiều đơn vị pháo phòng không quân đội đóng trên địa bàn, góp phần vào chiến công chung của quân và dân Hoàng Mai, bắn rơi nhiều máy bay địch.
Trên mảnh đất Mai Hùng chúng đã gây nên những tội ác tày đình. Liên tục trong tháng tư kể từ lúc đế quốc Mỹ phát động cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai, chúng đã gây ra các vụ, đánh vào các bến phà Hoàng Mai (lúc này đã có 3 bến), quốc lộ 1A, khu trung chuyển hàng hoá Kim Ngọc, các làng mới ven chân rú Sứ làm chết em Bùi Văn Doạt (con ông Đạt thôn 15), bà Bùi Thị Diên (mẹ ông Văn Đức Ân thôn 15), bị thiệt mạng.
Ngày 7/4/1972, anh Trương Văn Lợi (em chị Trương Thị Hợp nay ở thôn 16), làm thư ký đội sản xuất đi nhận lúa giống ở Quỳnh Hồng về đến cầu dốc Thông bị máy bay đánh đã hi sinh.
Đặc biệt, nghiêm trọng hơn ngày 29/4/1972, địch ném bom tàn phá làng Kim Lung làm hư hại nhiều nhà cửa, nương vườn, gia súc, gia cầm bị chết, 7 người bị thương vong, trong số người bị chết có 7 người chết trong một hầm (số này hầu hết là những người trong gia đình và anh, em): Trần Bá Hoa, Trần Bá Cành, Trần Bá Cơ, Trần Bá Kiệm, Trần Bá Nhiệm, Trần Thị Liêu, Trần Bá Ly vµ bµ Nguyễn Thị Đạt.
Ngày 24/6/1972, địch ném bom xuống làng Bái Hạ, làm nhiều nhà bị hư hỏng, làm cho 3 người bị thương: Chị Đặng Thị Phần, Đậu Thị Ninh, anh Đậu Đức Vân và bà Trần Thị Xuy bị nặng và chết tại bệnh viện.
Hơn một tháng sau vào ngày 26/5/1972, địch cho máy bay đánh vào thôn Yên Lộc tàn phá nhiều nhà cửa, ruộng vườn, gia súc, gia cầm bị thiệt hại, làm 4 người chết: Em Bùi Thị Lan (con ông Bùi Văn Dởn nay ở thôn 14), Trương Văn Hải (con ông Trương Văn Hùng hiện ở thôn 12). Hai chị em: Văn Thị Hương, Văn Đức Tâm (con ông bà Duyên và Văn Đức Trụ, hiện nay ở thôn 17).
          Các tháng tiếp theo, địch vẫn liên tục đánh phá vào địa bàn của xã. Ngày 10/8/1972, địch pháo kích vào chân rú Sứ, bà Nguyễn Thị Cới thôn 13 bị thiệt mạng.
Ngày 7/9/1972, địch ném bom xuống khu vực thôn 7, thôn 8 tàn phá nhiều nhà cửa, ruộng vườn, gia súc, gia cầm bị chết, làm 4 người bị thiệt mạng: chị Đặng Thị Tình, các cháu Trần Thị Lòn, Trần Thị Lan, Nguyễn Thị Tho.
Ngày 17/9/1972, bom từ trường nổ làm 3 người ở thôn 8 và thôn 9 thiệt mạng: Trần Đức Quảng, Trần Văn Hoè, Văn Đức Nho. Mặc cho kẻ thù điên cuồng đánh phá, nhưng cả hai miền Nam - Bắc đều lập được chiến công vang dội, buộc chúng phải ngừng nén bom.
Ngày 22/10/1972, Tổng thống Mỹ NíchXơn phải ra lệnh hạn chế ném bom miền Bắc, nhưng trên thực tế khối lượng bom đạn địch dùng đánh phá trên vùng đất nhỏ hẹp của Quân khu IV không hề giảm đi so với khối lượng chúng dùng trước đây. Từ khu vực Vĩnh Linh đến Thanh Hoá, hàng ngày vẫn có từ 250 - 300 lần chiếc trinh sát, ném bom và có từ 18 - 27  lượt chiếc máy bay B52. Tổng thống Mỹ vẫn rêu rao luận điệu “Hoà bình đã ở trong tầm tay”, nhưng bom đạn Mỹ lại dày đặc nhằm huỷ diệt “vùng cán xoong” mà Nghệ An, Quỳnh Lưu là một trong những trọng điểm đánh phá ác liệt nhất. Tại nơi đây, ngoài máy bay cường kích, chúng còn tăng nhiều số lần đánh phá, tăng thêm mật độ B52, lúc thấp nhất là một tốp (3 chiếc), cao nhất đến 9 tốp (27 chiếc) được sử dụng vào một trận đánh phá.
Máy bay địch thay nhau khống chế các bến phà, các đầu mối giao thông. Tàu chiến bắn cầm canh suốt ngày đêm, bắn sâu vào nội địa, gây căng thẳng thường xuyên. Thuỷ lôi, bom từ trường được rải bổ sung trên những khu vực phong toả đã dẫn đến việc giao thông vận tải gặp nhiều khó khăn. Đây là thời kỳ Đảng bộ, nhân dân Mai Hùng cùng với huyện phải đương đầu với nhiều khó khăn và hy sinh tổn thất.
Thực hiện quyết  tâm của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ: "Hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch vận tải của Trung ương giao, bảo đảm yêu cầu chi viện cho tiền tuyến  một phần nhu cầu thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân trong tỉnh”, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân xã Mai Hùng cùng với cả huyện ra quân làm công tác giao thông vận tải: "Sống bám cầu đường, chết kiên cường dũng cảm”.
Huyện thành lập 5 công trường chuyên sản xuất đá, làm được 7.000m3 đá chuyển lên mặt đường chống lầy, san lấp hố bom. Nhân dân đóng góp hàng ngàn cây tre, nứa, bạch đàn để sẵn sàng bảo đảm giao thông. Các bến vượt nâng thời gian thông xe lên tới 7 - 8 giờ/đêm. Có đêm, cả huyện huy động 3 ngàn lượt người làm đường xá, đường ống, lát ngầm qua sông Hoàng Mai tạo thành 3 bến vượt, ngầm qua Cầu Giát, đào đắp hơn  3.000 m3  đất, đá.
Trên mặt trận chống bom từ trường, bom nổ chậm, nổi bật có nữ chiến sỹ dân quân Phan Thị Ngãi (Quỳnh Đôi). Có lần địch ném bom nổ chậm xuống chân cầu Hoàng Mai, chị dùng phương tiện thô sơ, tự tạo để kích bom nổ. Bom nổ hất chị ngã, chị bị bùn đất vùi lấp. Chị dùng sức hất tung bùn đất đứng dậy, phá tiếp cho đến quả cuối cùng.
Một trong những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng trong cuộc chiến chống lại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ lần II, đó là chúng ta đã đánh bại hoàn toàn cuộc tập kích bằng không quân của Mỹ trong 12 ngày đêm vào thủ đô Hà Nội làm nên chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không", buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang, ngừng ném bom bắn phá miền Bắc ngày 30/12/1972. Và phải chấp nhận mọi điều khoản của Hiệp định Pari về "Chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, phải thực hiện tôn trọng, độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, phải rút hết quân mỹ về nước"
Ngày 27/1/1973, “Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình” ở Việt Nam được chính thức ký và bắt đầu có hiệu lực từ 7 giờ ngày 28/01/1973. Sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã bước sang một bước ngoặt lịch sử mới để thực hiện thắng lợi trọn vẹn lời dạy của Bác Hồ kính yêu “Đánh cho Mỹ cút”, đánh cho nguỵ nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
      3. Bước đầu khôi phục hậu quả chiến tranh, phát triển sản xuất, tích cực chi viện cho tiền tuyến miền Nam (từ tháng 1/1973 đến 30/4/1975).
      Một thời kỳ mới được mở ra, miền Bắc tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh phá hoại, đẩy mạnh sản xuất, dồn sức chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam.
      Trong bối cảnh đó, từ ngày 10 đến ngày 13/4/1973, Đảng bộ huyện tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ XIV. Đại hội đánh giá những thành tích nổi bật năm 1972, một năm có 8 tháng chiến tranh phá hoại ác liệt, nhưng cũng là một năm Quỳnh Lưu có sức vươn lên trên con đường phát triển của mình để đạt những kết quả toàn diện, đặc biệt trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, chi viện cho chiến trường miền Nam.
      Thành tích đạt được và vượt chỉ tiêu “6 con số 6” mà Đại hội XIII đề ra:  Năng súa 6,4 tấn /ha (chỉ tiêu đề ra là 6 tấn/ha). Sản lượng lương thực 6 vạn tấn (đạt chỉ tiêu).  6 vạn người đi học (đạt chỉ tiêu). Diện tích canh tác 6 vạn mẫu (đạt chỉ tiêu). Gửi tiền tiết kiệm 6,9 triệu đồng (chỉ tiêu 6 triệu đồng). Nuôi 6,2 vạn con lợn (chỉ tiêu 6 vạn con lợn)".
Đại hội XIV đề ra ba nhiệm vụ chiến lược để “Ra sức phấn đấu làm cho Quỳnh Lưu mau trở thành một trong những huyện khá nhất miền Bắc”.
      Sau Đại hội lần thứ XIV (1973) của Đảng bộ huyện. Đại hội Đảng bộ xã Mai Hùng lần thứ VI được tiến hành.
Với khí thế của người chiến thắng, đại hội quyết tâm thực hiện những nhiệm vụ trọng đại mà đại hội các cấp đã đề ra: Hàn gắn vết thương chiến tranh, chi viện sức người, sức của cao nhất cho cách mạng miền Nam. Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Đồng chí: Lê Công Tuyên, Bí thư Đảng ủy
Đồng chí: Ngô Trí Thảnh, tổ chức
Đồng chí: Ngô Trí Nhoạn, Chủ tịch UBHC
Trong cả nhiệm kỳ Đảng bộ và nhân dân đã đạt được nhiều kết quả: Khôi phục vết thương chiến tranh, các chiến dịch được mở ra, nhằm khôi phục ruộng đồng bị máy bay, đại bác Mỹ tàn phá.
Trong chiến dịch Bắc Quảng Trị khôi phục và thuỷ lợi hoá vùng Hoàng Mai, lực lượng dân quân du kích xã đã cùng với toàn huyện đã tham gia tích cực, huy động được 16.000 người, biên chế thành 18 tiểu đoàn, lao động trong 48 ngày, đêm liên tục; đã hoàn thành việc san lấp 2.500 hố bom, tháo gỡ 250 quả bom chưa nổ do đế quốc Mỹ ném xuống; đưa vào sản xuất 620 ha đất hoang hoá, xây dựng mới và sửa chữa 1.000 ngôi nhà cho nhân dân, đắp một con đập và đào 6km kênh, mương dẫn nước, với tổng khối lượng đào đắp 243.600 m3 đất.
Chiến dịch được chia thành 6 mặt trận: Mặt trận La Vang (do đồng chí Nguyễn Thị Xường, Uỷ viên BTV Huyện uỷ chỉ đạo ở Mai Hùng), theo kế hoạch là làm cống tiêu từ đồng Vức ra xóm Trén thôn 20.
Sáu tháng cuối năm 1973, Huyện uỷ chủ trương mở chiến dịch khôi phục và mở rộng các đồng muối Quỳnh Thuận, An Hoà, mang tên “Chiến dịch Cửa Việt”. Trong chiến dịch các hướng, các xã được chia thành những mặt trận.
Mặt trận “Đông Hà” (Quỳnh Bảng), sau các đợt thi đua lập thành tích kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, khí thế ra quân ngày càng rầm rộ, quân số ngày càng được bổ sung, có ngày cao nhất trên công trường 3.567 người. Đến ngày 29/8/1973, trên mặt trận “Đông Hà” đã phấn đấu đạt 35.796 công trực tiếp, chiếm tỷ lệ 78% ngày công có mặt. Về khối lượng đạt được 35.080 m3 đất và 220.309 m2 dãy cỏ, đạt định mức so với kế hoạch là 0,96 m3/công, đạt tỷ lệ so với công gián tiếp 120%. Các xã: Mai Hùng, Quỳnh Bảng, Quỳnh Trang, Quỳnh Liên, Quỳnh Văn, Quỳnh Xuân, Quỳnh Tân được cắm cờ đỏ thi đua.
Tại mặt trận “Cửa Việt” đồng muối Cổ Bầu, thi công trong điều kiện thời tiết không thuận, mưa bão liên tiếp, nhưng cả mặt trận quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, tăng giờ chiến đấu, mỗi ngày làm từ 10 đến 12 giờ. Nhiều đơn vị tổ chức ăn cơm tại trận. Khối lượng làm được 30.338 m3 đất, đạt năng suất định mức 1 m3/công và đạt tỷ lệ so với công trực tiếp 93%. Kết thúc chiến dịch “Cửa Việt”, toàn huyện đã khai phá thêm 246 ha diện tích làm muối, cải tiến cách làm muối theo phương pháp sản xuất muối của Nam Định và đắp được 8 km đê ngăn mặn.
Cùng thời gian, huyện Quỳnh Lưu thực hiện chủ trương của trên về việc xây dựng cơ sở điều dưỡng và dạy nghề cho thương binh từ các chiến trường về Quỳnh Châu. Chưa đầy 3 năm, từ tháng 2/1973 đến 19/5/1975, lực lượng dân quân các xã đã đóng góp xây dựng 250 ngôi nhà xinh đẹp, với diện tích ở 15.000 m2, trong đó có 50% số nhà có tường xây, lợp ngói, lát gạch. Công trường “Lương tâm tình cảm” hoàn thành, lực lượng vũ trang đã đóng góp 1 triệu ngày công, 3 triệu viên ngói, vận chuyển 15.000 tấn nguyên, vật liệu với những quãng đường xa trên 30 km.
Việc xây dựng công trình "Lương tâm" được Bộ Tư lệnh Quân khu IV gửi điện động viên và tặng bức trướng có nội dung: "Nặng nghĩa với miền Nam, tận tình với thương binh, xây dựng hậu phương mạnh".
Năm 1974, tranh thủ lúc hoà bình, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, lực lư­ợng xung kích là đoàn viên thanh niên làm nòng cốt với ph­ương châm: "Nhà nư­ớc và nhân dân cùng làm", xã đã cùng với huyện tham gia xây dựng lại bệnh viện huyện trên đất Quỳnh Thạch gồm hàng chục ngôi nhà xây, lợp ngói với gần 100 gi­ường bệnh, đủ trang thiết bị cho các khoa khám, điều trị, phẫu thuật, kể cả những tr­ường hợp hiểm nghèo.
Đầu năm 1975, Đảng bộ và nhân dân xã Mai Hùng cùng với cả huyện đã huy động 33 ngàn lao động, ra quân trong một tháng, tiến hành cùng một lúc trên các vùng, miền của huyện. Chiến dịch kết thúc, hoàn chỉnh các hệ thống t­ưới tiêu, nhất là giải quyết đư­ợc t­ưới tiêu cho vùng trọng điểm lúa; đưa diện tích trồng lúa ổn định lên 5.000 ha, tạo điều kiện đi vào thâm canh lúa chủ động, nâng cao hệ số sử dụng đất.
Cuối năm1975, để kịp thời làm kịp vụ đông xuân huyện đã điều động một tổ cày của xã Quỳnh Hưng ra giúp đảng bộ và nhân dân xã Mai Hùng, chỉ trong một thời gian ngắn đã làm xong, lúa chiêm, khoai lang và các loại rau màu khác theo đúng kế hoạch.
Cuối năm 1975, Đại hội Đảng bộ lần thứ VII được tiến hành, (đồng chí Lê Công Tuyên được điều động tăng cường cho cấp huyện). Đại hội đã bầu ra và được phân công:
1. Đồng chí: Ngô Trí Nhung, Bí thư Đảng uỷ
2. Đồng chí: Quách Hữu Trình, trực đảng
3. Đồng chí: Lê Đức Thơn, Chủ tịch UBHC
Những năm 1973 đến năm 1975, Đảng bộ và nhân dân cùng với toàn huyện đã đạt đư­ợc "10 chiến công" trên các lĩnh vực:
1. Mở rộng đồng muối cùng các hệ thống t­ưới, tiêu cho trên 2.000 ha.
2. Xây dựng bệnh viện huyện t­ương đối khang trang. Xây dựng công trình "Lương tâm tình cảm" ở Quỳnh Châu.
3. Xây dựng xong đập Trà Bồng.
4. Nạo vét sông 13 với khối l­ượng 8 vạn m3.
5. Nạo vét sông 17 với khối lư­ợng 1,8 vạn m3.
6. Xây dựng xong trư­ờng Đảng tại Quỳnh Thuận.
7. Trồng 407 ha đồi thông, vàng tâm và cây các loại.
8. Làm thêm 2.174 nhà ngói cho dân.
9. 27 xã xây trư­ờng học, trạm xá.
10. Vụ mùa thắng lợi, muối đạt kế hoạch và tăng 8 ngàn tấn, gửi tiền tiết kiệm 8 triệu đồng.
Dư­ới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nư­ớc của dân tộc ta đã kết thúc thắng lợi. Đảng bộ và nhân dân xã Mai Hùng cùng với nhân dân miền Bắc đã đóng góp hết sức mình cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chi viện sức ngư­ời, sức của để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cùng cả nư­ớc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
21 năm tr­ường kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu n­ước, d­ưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng bộ, nhân dân Mai Hùng rất đỗi tự hào vì đã góp công sức không nhỏ vào công cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nư­ớc, giải phóng miền Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, thống nhất đất n­ước, đ­ưa cả nư­ớc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mai Hùng đã cung cấp hàng ngàn tấn lư­ơng thực, thực phẩm, động viên 684 đồng chí tham gia quân đội, 54 người vào thanh niên xung phong, 168 người đi dân công hoả tuyến (chỉ tính số người đã được công nhận). Trên các chiến trường, trong hàng chục năm chiến đấu, những người con quê hương đã vượt qua bao gian khổ hy sinh, lập nhiều thành tích, 78 đồng chí đã hiến dâng cả đời mình cho Tổ quốc và quê hương, 89 đồng chí là thương binh các loại. Với sự đóng góp đó đã được nhà nước phong tặng 1 bà mẹ Việt Nam anh hùng, 2 cán bộ tiền khởi nghĩa, 622 huân, huy chương các loại, 246 gia đình có công với nước.
Ở hậu ph­ương, d­ưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân đã cùng với huyện đã làm nên các công trình thuỷ lợi, cải tạo đồng ruộng, phân bổ dân cư. Toàn bộ cơ sở vật chất - kỹ thuật đó không những chỉ phát huy tác dụng trước mắt, mà còn phát huy tác dụng lâu dài. Hàng chục hồ đập, kênh mư­ơng được xây dựng, hàng trăm làng mới được hình thành. Những công trình đó không đòi hỏi thù lao, công xá mà tất cả đều bằng tấm lòng tâm huyết.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lâu dài, gian khổ, ác liệt của dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, hơn 21 năm (1954-1975), đã giành thắng lợi vẻ vang; non sông thu về một mối, cả nước thống nhất cùng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng bộ, nhân dân Mai Hùng hân hoan cũng như cả nước phấn khởi, tin tưởng bước tiếp chặng đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Con đường đó vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
 
CHƯƠNG V
ĐẢNG BỘ NHÂN DÂN XÃ MAI  HÙNG, TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC (1975 - 2010)
    1. 10 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quê hương của Đảng bộ và nhân dân Mai Hùng 1975 - 1986.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc đã toàn thắng bằng chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh kết thúc ngày 30/4/1975, giang sơn thu về một mối, thống nhất đất nước, cùng cả nước bước vào thời kỳ quá độ tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, một thời kỳ mới có nhiều thuận lợi và khó khăn đan xen.
Ngày 5/4/1976, đại hội lần thứ VIII của Đảng bộ xã được tiến hành trong bối cảnh đất nước hoàn toàn thống nhất. Đại hội tập trung đề ra phương án mở rộng diện tích khai hoang, quét hoá bằng lao động thủ công kết hợp với cơ giới hoá. Đắp đê II mở rộng diện tích đồng cói, mở rộng ngành nghề, phát triển chăn nuôi... Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
 Đồng chí: Quách Hữu Trình, Bí thư Đảng ủy
Đồng chí: Ngô Trí Phương, Phó bí thư trực đảng
Đồng chí: Lê Đức Th¬n, Chủ tịch UBHC
Ngày 24/5/1976, cả nước bầu ra Quốc hội thống nhất, đổi tên nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà thành nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Từ ngày 14 đến ngày 20 tháng 12 năm 1976, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng tiếp tục khẳng định con đường tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đánh thắng hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc…
Cùng với cả nước, tỉnh, huyện; Đảng bộ, nhân dân xã Mai Hùng bước vào một thời kỳ mới có nhiều thuận lợi cơ bản và những khó khăn đan xen, đòi hỏi phải có quyết tâm lớn để vượt qua.
Bước vào thời kỳ cùng nhân dân cả nước xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, dân số toàn xã Mai Hùng 3.400 người, đảng viên 110 đồng chí. Năm 1976, Ủy ban hành chính (UBHC) địa phương đổi thành Uỷ ban nhân dân (UBND). Hiến pháp năm 1960 quy định nhiệm kỳ UBND cấp xã là 2 năm 6 tháng, từ năm 1989 được đổi thành nhiệm kỳ 5 năm và bắt đầu đặt chức danh Thường trực Hội đồng nhân dân.
Ngày 30-9-1976, Thủ Tướng Chính phủ đã có quyết định số 389-TTg, phê chuẩn quy hoạch sản xuất của huyện Quỳnh Lưu. Quyết định nêu rõ phạm vi, ranh giới, phương hướng sản xuất và phân bổ đất đai, tổ chức lại sản xuất, biện pháp thực hiện vốn, đầu tư, tăng cường cán bộ chỉ đạo. Điều này thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Trung ương đối với Đảng bộ, nhân dân Quỳnh Lưu, trong đó có xã Mai Hùng.
Thực hiện Nghị quyết 11/NQ-TU ngày 7-7-1977 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về việc “tập trung lãnh đạo, xây dựng huyện Quỳnh Lưu thành huyện mẫu”, trong tổ chức lại sản xuất, phát triển kinh tế, thực hiện thắng lợi Nghị quyết lần thứ IX của Đảng bộ tỉnh Nghệ Tĩnh().  Nghị quyết nhấn mạnh: “Trong những năm tới, Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Lưu phải phát huy cao độ, tinh thần cách mạng tấn công, tinh thần tự lực tự cường, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tiếp đến dấy lên cao trào cách mạng sôi nổi, liên tục, phấn đấu đưa kinh tế Quỳnh Lưu phát triển toàn diện”().
Thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, sự lãnh đạo và chỉ đạo quyết liệt của Huyện uỷ. Với phương châm: “Lấy sức dân là chính, có sự hỗ trợ của tỉnh và Trung ương”, với phương châm này trong thời kỳ đổi mới Trung ương đã khái quát thành luận điểm chung cho cả nước: “Nhà nước và nhân dân cùng làm”.
Khí thế cách mạng diễn ra sôi nổi, toàn Đảng bộ, nhân dân xã Mai Hùng bước vào một giai đoạn quyết liệt, khai hoang vỡ hoá diện tích bị bỏ hoang. Sức người cùng cơ giới hoá kết hợp, san ủi các cồn cao, cất bốc quy tập mồ mả nằm rải rác trên các cánh đồng, quy tụ vào các nơi quy định; đắp đập, ngăn khe tạo ra hồ chứa nước, đắp đê, ngăn mặn không cho nước thuỷ triều tràn lên để ngọt hoá đồng ruộng.
Những thành tựu kinh tế xã hội thời kỳ từ 1975-1986
Từ năm 1959 đến 1979, sau gần 20 năm xây dựng HTX nông nghiệp, sau nhiều lần nhập tách (từ khi thành lập xã Mai Hùng đã có những lần nhập tách. Năm 1969, hợp nhất 3 HTX là Kim Ngọc, Toàn Thắng và Tiền Phong thành một HTX gọi là HTX Thống Nhất Mai Hùng).
Năm 1972, chia thành 3 HTX là Kim Ngọc, Toàn Thắng và Tiền Phong.
Năm 1974, hợp nhất thành toàn xã mang tên HTX Thống Nhất Mai Hùng (tới năm 1989, chia thành 3 HTX như hiện nay). Mô hình làm ăn tập thể từng tỏ rõ tính ưu việt thời kỳ đầu và trong chiến tranh, nhưng đã bộc lộ những nhược điểm. Lề lối quản lý và phân phối bình quân đã làm hạn chế rất lớn động lực phấn đấu của người nông dân. Từ đầu năm 1981, Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (gọi là “khoán 100”) ra đời và được hoàn thiện bằng khoán 10 (tức Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị) năm 1988.
Nhằm đẩy mạnh sản xuất, tăng năng xuất cây trồng vật nuôi, đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất. vấn đề đầu tiên là công tác thuỷ lợi luôn được đảng bộ quan tâm. Thời kỳ từ 1975-1986, việc đắp đê, xây cống tiêu úng, ngăn mặn (đê 1,đê 2) và xây dựng hệ thống mương máng, tiếp nhận nguồn nước ngọt về đồng ruộng quê hương đã được hoàn thành về cơ bản.
Những năm 1977-1978 đắp tiếp đê II (Hói Bãi)
Năm 1981-1982, xây cống qua đường quốc lộ IA xuống làng Yên Phú, nguồn nước lấy từ kênh cũ An Ngãi nên nước không đủ. Từ năm 1987-1988, xây cống và hệ thống máng dẫn nước vượt cống Hói Bãi, đưa nước về tưới các cánh đồng HTX Tiền Phong, HTX Toàn Thắng.
Đồng hành với công tác thuỷ lợi là vấn đề cải tạo đồng ruộng. Năm 1976-1977, xã tiến hành cải tạo hoàn chỉnh các cánh đồng ven động Kiêu, san ủi các cồn, lấp hết các hố bom, đạn của đế quốc Mỹ, các cánh đồng Bát, đồng mò, đồng Vức, cồn Sậy (vùng Tiền Phong)... tạo thành cánh đồng bằng phẳng, thuận tiện cho canh tác và tiếp nhận nguồn nước tưới.
Năm 1977, cải tạo đồng Bát - Cồn Mít rộng 6 héc ta tiếp tục giãn dân từ làng Kim Lung, Yên Lộc và đã có 30 hộ dời dân thành lập thôn 17.
Năm 1978, cải tạo đồng Cói vùng Hói Bãi rộng 100 mẫu (theo chương trình của tỉnh).
Những diện tích được cải tạo về sau chuyển sang trồng lúa, đưa vào sản xuất 2 vụ lúa ổn định, 280 hécta trên tổng diện tích 372 hecta đất canh tác. Đồng ruộng quê hương đã được cải tạo về cơ bản. Các giống lúa mới như CR203, tạp giao đưa vào đồng ruộng Mai Hùng cho năng suất từ 2,5 - 3 tạ/sào. Ngô lai Trung Quốc đạt 2,5 tạ/sào, cơ cấu mùa vụ thay đổi, vừa né tránh thiên tai, vừa tăng vòng quay sử dụng đất.
Từ những năm 1982-1983, cán bộ và xã viên HTX đã gieo trồng thí điểm vụ hè thu thành công trên một số diện tích. Đến nay (2011), vụ hè thu đã thay thế 100% diện tích lúa vụ mùa bấp bênh trước đây. Vụ đông được gieo trồng như một vụ chính với các giống đặc sản như: Mướp đắng, khoai tây, lạc, đỗ leo, bầu, bí, ngô...
Từ năm 1973-1985, tham gia các công trình xây dựng của tỉnh Nghệ Tĩnh và huyện Quỳnh Lưu như: Vách Bắc (1976), hồ Vực Mấu (1978-1985), kênh Bình Sơn.
          Thời kỳ từ 1973 đến 1980, tham gia các công trình của huyện trong phong trào Quỳnh Lưu là huyện thí điểm tổ chức lại sản xuất tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Sau hàng chục năm nước nhà thống nhất dưới lạnh đạo của đảng, điều hành của chính quyền, mặc dù nhân dân và cán bộ hết lòng phấu đấu nhưng thiên tai địch hoạ chồng chất và kéo dài, đời sống nhân dân không lúc nào hết khó khăn. Đặc biệt vấn đề lương thực với nạn thiếu đói triền miên, luôn luôn là tụ điểm nóng bỏng nhất. Điển hình nhất là thời kỳ từ năm1976 -1988, 12 năm hầu như không năm nào là không thiếu lương thực. Những năm đó, mùa giáp hạt cán bộ phải tất tả ngược xuôi tìm nguồn lương thực cứu đói cho dân. Năm 1977, đích thân Bí thư Đảng uỷ xã phải lên miền núi liên hệ mua sắn cứu đói cho dân. Trong bối cảnh đó, tháng 5/1977, Đại hội đại biểu lần thứ IX của xã được tiến hành, về dự Đại hội có 98 đại biểu thay mặt cho 198 đảng viên của toàn Đảng bộ. Đại hội tập trung bàn phương hướng theo tinh thần đại hội Đảng bộ huyện đề ra đó là: "tổ chức lại sản xuất". Đại hội tiến hành thảo luận góp ý kiến cho Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVII.
Đại hội phân tích đánh giá nguyên nhân đạt được và chưa được trong nhiệm kỳ qua; về khách quan do thời tiết không thuận, rét đậm đầu vụ, nắng hạn cuối vụ làm tổng sản lượng lương thực giảm sút, đời sống nhân dân khó khăn. Các cánh đồng tiếp tục được cải tạo khai phá, cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng được tiếp tục củng cố. Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Đồng chí: Quách Hữu Trình, Bí thư Đảng ủy
Đồng chí: Văn Đức Ngãi, trực đảng
Đồng chí: Ngô Trí Nhoạn, Chủ tịch UBND
Trong lúc chúng ta dồn sức lực, khôi phục hàn gắn vết thương sau chiến tranh, đẩy mạnh sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, từng bước ổn định và nâng cao đời sống cho nhân dân lao động thì tình hình thế giới diễn biến phức tạp, đặc biệt là tình hình trên bán đảo Đông Dương. Bọn đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ cùng các thế lực thù địch ráo riết tiến hành chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng tiến hành bao vây cấm vận về kinh kế, kết hợp với các phần tử bất mãn Đảng, xuyên tạc, vu khống nhằm chống lại chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chúng kích động, lôi cuốn những phần tử từ trong nội bộ đảng để tiến hành gây bạo loạn lật đổ. Nghiêm trọng hơn chúng gây ra hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới Phía Bắc.
Ngày 17-2-1979, chúng mở cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Trước nguy cơ Tổ quốc bị xâm lăng, ngày 3-3-1979, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra lời kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân dồn sức chống xâm lược. Ngày 4-3-1979, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ban hành Lệnh tổng động viên. Đảng bộ, nhân dân xã Mai Hùng lại bước vào một thời kỳ mới, huy động tổng lực sức người và của cho cuộc chiến tranh vệ quốc. Lực lượng thanh niên lại nô nức tòng quân xung phong gia nhập lực lượng vũ trang diệt giặc. Thật cảm động, tự hào khi những cựu chiến binh đã trải qua 2 cuộc kháng chiến lâu dài, vẻ vang của dân tộc nay họ được nghỉ hưu, chuyển ngành, phục viên, xuất ngũ, đoàn tụ với gia đình, xây dựng quê hương, nhưng trước lời kêu gọi của BCH Trung ương Đảng và Lệnh tổng động viên của Chủ tịch nước, họ không ngần ngại một lần nữa quên thân vì nước. Họ đã viết đơn, kể cả bằng máu xin được trở lại đội ngũ trực tiếp chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Cuộc chiến tranh biên giới 2 miền Nam - Bắc, với tư thế phòng thủ để chiến đấu, xã Mai Hùng nằm ở cụm số 4 trong 9 cụm chiến đấu của toàn huyện.
Cụm 4 gồm xí nghiệp Quỳnh Mai, Mỏ Đá Hoàng Mai, Mai Hùng và Quỳnh Trang. Cả cụm 4 đã làm được 9 vạn chông tre, 6 nghìn chông sắt, mỗi chiến sỹ dân quân tự vệ phải có một cọc chống tăng dài 4m đường kính 20cm, cung cấp gần 1.000 gốc tre tươi, huy động 1.500 du kích bố phòng thường trực ở ven bờ biển. Tất cả nhân lực, vật lực xã Mai Hùng đã cùng với cả huyện rào được 25.773m, hàng rào bằng tre và gỗ ven tuyến biển của huyện, đã huy động 167.397 ngày công, rào được 488.211 cây các loại chủ yếu là tre, chông sắt; đào chôn cọc chống tăng 16.938 cây; rèn 7.091 chông sắt, dây thép cột hàng rào 250kg, xây lô cốt ở tuyến biển và khu vực trọng điểm 141 cái; hầm chỉ huy 3 chiếc, nhà trực gác, lợp ngói 3 chiếc; công sự cho pháo 57ly 2 hầm, hầm ẩn nấp bằng kèo gỗ hình chữ A; 877 chiếc, các kiểu hầm khác 1.370 chiếc và đào giao thông hào 527.746m. 12 trận địa chốt được xây dựng trên  các đỉnh cao, những trọng điểm, đào công sự chiến đấu 10 chiếc; hầm cất dấu vũ khí, đạn dược 6 chiếc. Nguyên vật liệu được sử dụng: xi măng 6.700kg, vôi khối 134.810kg, đá hộc 9.099m3, cát 434m3, gỗ 1.235m3, ngói dập 2.400 viên. Tổng số ngày công huy động 671.507 công, giá trị thành tiền 955.609 đồng ().
Từ ngày 30/4 đến ngày 2/5/1979, Đại hội đại biểu lần thứ X của Đảng bộ được tiến hành, trong tình hình đất nước vừa có hoà bình vừa có chiến tranh. Chiến tranh biên giới phía Tây Nam, biên giới phía Bắc. Kinh tế tiếp tục sa sút do thời tiết gây ra. Đại hội tập trung bàn những vấn đề kinh tế, dân sinh và tiếp tục cải tạo đồng ruộng để đưa giống mới, khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm tăng năng xuất cây trồng, cải thiện đời sống nhân dân. Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Đồng chí: Trần Đức Tố, Bí thư Đảng uỷ (tháng 3/1980, đồng chí Lê Đức Tròn Huyện uỷ viên về thay)
Đồng chí: Ngô Trí Phương, trực đảng
Đồng chí: Ngô Trí Nhoạn, Chủ tịch UBND
Đại hội Đảng bộ xã diễn ra trong bối cảnh có nhiều khó khăn, đó là 2 cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc; hơn nữa việc huy động nhân lực đi xây dựng các công trình của tỉnh: Đô Lương, kênh Bình Sơn, trọng điểm là hồ Vực Mấu. Việc cải tiến quản lý HTX theo hướng công nghiệp hoá, kỹ thuật hoá đòi hỏi ngày càng cao, việc điều hành nhân lực phải thật sự khoa học, nhưng cán bộ quản lý chưa được bồi dưỡng bài bản, có chăng thì chỉ được tập huấn ở những lớp ngắn hạn, chắp vá. Trình độ quản lý theo kế hoạch và toàn diện còn yếu, không chặt chẽ, nhất là khâu quản lý ngày công, điều hành nhân lực, định mức công không hợp lý trên từng công việc. Trên thực tế, việc điều hành quản lý theo đội chuyên, chuyên môn hoá, công việc nhằm nâng cao tay nghề, nhưng trình độ bất cập, bộ máy quản lý cồng kềnh.
Việc đầu tư dàn trải, chỉ chú trọng cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng: Nhà kho, sân phơi, cải tạo đồng ruộng, di dời dân, làm giao thông thuỷ lợi, cất bốc di dời mồ mả, đầu tư cho khoa học kỹ thuật chưa được chú trọng, đào tạo cán bộ, du nhập giống mới không đáp ứng với yêu cầu thực tế đặt ra. Bởi vậy việc ăn chia phân phối ngày càng thấp.
Tổ chức lại sản xuất, lao động xã hội được phân công, điều hành trên quy mô lớn, đầu tư tập trung vào việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và các công trình phúc lợi tập thể cho nhân dân, việc làm đó là cần thiết, nhưng diễn ra nhanh chóng, có phần thiên về duy ý chí chủ quan, dẫn đến gò ép, mệnh lệnh. Nhận thức của cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân về tư tưởng “làm ăn lớn” chưa được quán triệt sâu sắc. Nên thời gian này người lao động có tư tưởng “ỷ vào tập thể”, họ không hứng thú với HTX, tinh thần “hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ”, hình như bị lãng quên.
Để hoàn thành nhiệm vụ, huy động đủ lực lượng, làm nghĩa vụ đối với Nhà nước, Ban quản trị đã dùng phương sách “rong công, phóng điểm”, lúc công việc cần thì tăng lên 30%. Các khâu then chốt có tính quyết định để tăng năng suất cây trồng: Làm cỏ, chăm bón, bảo vệ, thuỷ lợi không được chú ý, người lao động tính toán thiệt hơn, chọn những việc dễ, nhiều điểm dễ làm “ít về thời gian nhưng lợi về ngày công” (), nên họ tranh nhau làm. Những việc khó, ít điểm (ngày trời) kéo dài thì không ai nhận. Khâu then chốt là vấn đề khoa học kỹ thuật để tăng năng suất, tăng sản phẩm cho xã hội không được chú ý. Đến lúc thu hoạch đội trưởng, thư ký có nhiều việc làm không minh bạch, dấu diếm năng suất, sản lượng, tăng khống điểm cho người nhà. Đối với người lao động lúc thu hoạch lúa, màu đều cố ý “bỏ sót” để con, cháu đi sau “mót”, thậm chí có người còn thu dấu sản phẩm để rồi bất cứ lúc nào: trưa, tối, vắng người là họ chớp thời cơ đưa về. Mặt khác, trong những 1978 - 1980 thời tiết không thuận: lụt, bão liên tiếp diễn ra, giá trị ngày công chỉ tính bằng lạng, thậm chí không đầy lạng, dân lao động lúc đó vẫn nói: Vụ này ăn chia được “xêrô =0” người nông dân không hào hứng với công việc, dẫu rằng việc đó là của nhà nông, đồng ruộng là nơi “bán mặt cho đất, gửi lưng cho trời”, họ không thiết tha mà chỉ làm chiếu lệ, miễn sao đủ được ngày công, không bị phạt. Không đủ ăn, họ phải tìm cách chạy chợ, ngược xuôi để kiếm cân khoai, củ sắn, duy trì cuộc sống cho gia đình. Giá lương thực, thực phẩm tăng vọt. HTX mua bán khan hiếm hàng hoá, không đủ cung cấp những mặt hàng thiết yếu cho người dân; việc học hành của con cháu sa sút, nhiều học sinh bỏ học và chất lượng giáo dục không đáp ứng yêu cầu. Đây là thực trạng chung mà Đảng bộ và và nhân dân xã Mai Hùng cũng như các địa phương khác ở trong huyện cần phải vượt qua.
Từ những năm 80, nền kinh tế nước ta bước vào giai đoạn khủng hoảng, cơ chế bao cấp đang cản trở sự phát triển, nhất là trên lĩnh vực phân phối lưu thông. Việc đổi tiền năm 1978, giá lương tiền năm 1985, cũng như hiện tượng “cấm chợ ngăn sông” làm cho tình hình thêm phức tạp.
Thời điểm bùng nổ khủng hoảng về kinh tế - xã hội trong những năm đầu thập niên 80, mà trước đó khi cuối những năm 70 đã lâm vào bế tắc mà biểu hiện rõ nét nhất là hiệu quả sản xuất thấp, đời sống của xã viên gặp muôn vàn khó khăn, người lao động không thiết tha với ruộng, trình độ cán bộ quản lý yếu, nhiều tiêu cực đã xẩy ra. Do vậy, nhiều nơi ở miền Bắc đã diễn ra “khoán chui” trong nông nghiệp và thực tế cho thấy ở những nơi đó bước đầu cởi bỏ được ách tắc, khó khăn, đời sống của xã viên được cải thiện trên mảnh ruộng mà lâu nay họ thường làm.
Trong hoàn cảnh đó, tháng 8-1979 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 (khoá IV) bàn và quyết định những nhiệm vụ cấp bách về kinh tế và đời sống, làm cho sản xuất “bung ra”. Hướng đổi mới công tác kế hoạch hoá là chống tập trung quan liêu, đảm bảo quyền làm chủ về kinh tế của các ngành, các cấp, kết hợp kế hoạch hoá với sử dụng cơ chế thị trường. Hội nghị chủ trương xoá bỏ những chính sách, cơ chế kinh tế không còn phù hợp với thực tế sản xuất và đời sống. Hội nghị nhấn mạnh việc kết hợp chặt chẽ 3 lợi ích: lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân người lao động để khuyến khích mọi người hăng say sản xuất. Tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá sự đúng đắn của các chính sách là tăng năng suất lao động, sản xuất phát triển và đời sống nhân dân được cải thiện.
Qua thực tiễn từ Hội nghị Trung ương 6; ngày 13- 01-1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 100-CT/TW. Theo nội dung cơ bản của Chỉ thị 100 và sự hướng dẫn của trên, các cơ sở hợp tác xã thực hiện “năm khâu, ba khoán”. Tập thể đảm nhận 5 khâu: làm đất, cung ứng vật tư, phân bón, bảo vệ thực vật và bảo vệ đồng ruộng. Nhóm và hộ gia đình xã viên nhận 3 khoán: gieo cấy, chăm sóc và thu hoạch; giao nạp sản phẩm theo định mức khoán trên đơn vị diện tích.
Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ra đời như một luồng sinh khí mới, tiếp sức cho ước mong chờ đợi lâu ngày của người lao động muốn được cởi trói để gắn bó thiết tha hơn với đồng ruộng.
Cuối năm 1981, Đại hội đại biểu lần thứ XI của đảng bộ diễn ra trong bối cảnh đất nước đang rơi vào cuộc khủng hoảng về kinh tế. An ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội có nhiều diễn biến phức tạp, một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân mất lòng tin vào đảng. Chỉ thị 100 ra đời như một luồng sinh khí mới thúc đẩy sản xuất, làm cho nông dân phấn khởi, lấy lại niềm tin. Đại hội thảo luận đóng góp cho dự thảo Đại hội đại biểu của Đảng bộ huyện XIX. Đại hội đã phân tích đánh giá thành quả đạt được trong nhiệm kỳ qua, thành tích nổi bật nhất là tham gia xây dựng công trình Vực Mấu.
Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
          Đồng chí: Lê Đức Tráng, Bí thư Đảng ủy
          Đồng chí: Lê Đăng Thì, trực đảng
          Đồng chí: Văn Đức Phú, Chủ tịch UBND
Trong lĩnh vực sản xuất, việc điều hành “5 khâu, 3 khoán”, phần nhiều do nhóm, hộ gia đình xã viên đảm nhận. Dù là tập thể hay cá nhân, nhóm hộ thực hiện Chỉ thị 100 trong giai đoạn từ năm 1981 đến 1988 để đến khi có Nghị quyết 10 của Trung ương ra đời, giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho người lao động đã thúc đẩy sản xuất phát triển, đời sống nhân dân được cơ bản cải thiện, góp phần ổn định, giữ vững trật tự, an ninh thôn xóm, tránh được sự “ngăn sông, cấm chợ”, “chạy bữa trưa, mất bữa tối”.
Sự nghiệp giáo dục thời kỳ này cũng gặp muôn vàn khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn, năm 1983 trường cấp 1 và trường cấp 2 nhập lại, gọi là trường cấp 1-2 Mai Hùng, thầy Phạm Văn Tuấn làm hiệu trưởng, hiệu phó cấp I, thầy Trần Huy Phước, hiệu phó cấp II, thầy Đặng Ngọc Hùng. Trong khó khăn đảng bộ và nhân dân đã vươn lên đến năm 1985 xã được công nhận phổ cập cấp 1 toàn dân.
Sau năm 1972, trường cấp 2 Mai Hùng dời về vùng động Mỗi (khu vực trung tâm xã ). Năm 1977, trường được xây dựng mới có 12 phòng.
Trong nhân dân, công tác an ninh được chú trọng nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác trước mọi âm mưu của kẻ thù cũng như các tệ nạn xã hội, góp phần giữ vững an ninh chính trị trật tự xã hội trên địa bàn quê hương .
Tháng 8/1982, Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đảng bộ được tiến hành, (nhiệm kỳ 1982-1985). Trọng tâm của nhiệm kỳ chỉ đạo HTX nông nghiệp hoàn thiện khoán gọn theo tinh thần Chỉ thị 100 của Ban bí thư Trung ương, đẩy mạnh làm giao thông thuỷ lợi, làm mương tưới xuống Kim Ngọc, xây 3 máng qua khe bà Qúi, gia cố đập tràn đê II. Khai thác nguồn vốn từ bên ngoài. Tiếp tục nâng cao đời sống của nhân dân. Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Đồng chí: Ngô Văn Tuyền, Bí thư
Đồng chí: Lê Đăng Thì, trực đảng
Đồng chí: Văn Đức Phú, Chủ tịch UBND.
Từ ngày 4 - 5 tháng 10/1985, Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng bộ được tiến hành, (nhiệm kỳ 1985-1987). Đại hội đóng góp vào văn kiện Đại hội XX Đảng bộ huyện, Đại hội lần thứ XIII của tỉnh và Đại hội Đại đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng.
Đại hội nhất trí đánh giá kết quả của nhiệm kỳ qua là to lớn, mặc dù cuộc khủng hoảng kinh tế của đất nước đang diễn ra nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, kinh tế của xã vẫn có bước phát triển tích cực.
Phương hướng: Đẩy mạnh thâm canh cây lúa, phát triển lâm nghiệp trồng rừng, xây dựng cơ sở vật chất... Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Đồng chí: Ngô Văn Tuyền, Bí thư Đảng ủy
Đồng chí: Lê Đăng Thì, trực đảng
Đồng chí: Văn Đức Phú, Chủ tịch UBND
        2. Đảng bộ và nhân dân xã Mai Hùng trong sự nghiệp đổi mới, tiến tới xây dựng xã hội vì mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội, dân chủ, công bằng văn minh" (1986-2010)
          Chặng đường 10 năm xây dựng kiến thiết và phát triển đất nước (1976 - 1986), cách mạng nước ta giành được nhiều thành tựu to lớn nhưng một số khuyết điểm và sai lầm trong quá trình lãnh đạo và điều hành do chủ quan, nóng vội, duy ý chí đã để lại những hậu quả nặng nề. Từ giữa những năm 1980, nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế trầm trọng.
          Tháng 12/1986, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tổ chức tại Hà Nội. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới nhằm từng bước đưa đất nước vượt qua thách thức, tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội với phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".
          Đại hội VI của Đảng được đánh giá là Đại hội của sự nghiệp đổi mới, mốc mở đầu cho bước tiến quan trọng trong quá trình kế thừa và phát triển sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
          Dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, các tổ chức quần chúng được củng cố, cùng chung sức chung lòng trong nhiệm vụ đoàn kết xây dựng quê hương. Một số tổ chức mới ra đời hoặc thành lập lại như Hội nông dân tập thể năm 1980 đến năm 1991 đổi thành Hội nông dân), Hội cựu chiến binh (1990), Hội bảo thọ (1983), đổi thành hội người cao tuổi (1995) có đông đảo hội viên tham gia với nhiều hoạt động bổ ích, phong phú.
          Trước sự thay đổi của tình hình trong nước, Đảng bộ xã Mai Hùng tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ XIV (nhiệm kỳ 1987 - 1991), tại hội trường xã Mai Hùng, trong 2 ngày từ ngày 20 đến ngày 21/10/1987.
          Nhiệm vụ chính của Đại hội: Tiến hành khoán gọn theo phương thức, "lời ăn lỗ chịu". Trâu, bò được hoá giá 100%, giao cho hộ chịu trách nhiệm. Lợn chăn nuôi được tự do tiêu thụ, không còn bó buộc "cấm chợ, ngăn sông", rừng bước đầu được khảo sát sẽ giao cho hộ. Công việc tập trung của đảng bộ và nhân dân là chuẩn bị nguyên vật liệu làm máng vượt cấp (nối kênh đông Vực Mấu) với thôn 12 -13... và vùng Toàn Thắng. Tập trung vốn làm cầu máng từ thôn 1 qua làng Kim Lung đưa nước Vực Mấu về. Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Đồng chí: Ngô Văn Tuyền, Bí thư Đảng ủy
Đồng chí: Văn Đức Ưng, Chủ tịch UBND
Đồng chí: Nguyễn Đức Hiên, trực đảng
Sau đại hội bước vào thực hiện 3 chương trình do Đại hội lần thứ VI của Đảng và Đại hội XX của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu đề ra. Nhưng 2 năm 1987-1988, do thiên tai, hạn hán bão lụt và phải xoay xở với cơ chế thị trường nên các ngành xản xuất của các Hợp tác xã đều bị ngưng trệ. Chỉ thị 100-CT/TW sau một thời gian thực hiện đã bộc lộ nhiều khuyết điểm, hạn chế đến sự phát triển của nền kinh tế. Nhằm thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo 3 chương trình mà Đại hội VI đã đề ra, Ngày 15/4/1988, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 10-NQ/TW về quản lý, đổi mới trong nông nghiệp. Năm 1989, HTX Thống Nhất xã Mai Hùng khi cơ chế không còn phù hợp, Đảng bộ đã nhất trí chia thành 3 HTX như hiện nay. Nghị quyết 10 đã đề ra cơ chế mới trong các hợp tác xã nông nghiệp, thay cho Chỉ thị 100-CT/TW năm 1981. Nghị quyết 10 khẳng định hợp tác xã là đơn vị kinh tế, tự chủ, hộ gia đình xã viên nhận khoán với hợp tác xã. Hợp tác xã khoán sản phẩm đến người lao động và bảo đảm khâu thời vụ, truyền thông khoa học kỹ thuật, giống cho xã viên (thường gọi khoán 10). Huyện uỷ Quỳnh Lưu đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW. Đảng uỷ triển khai học tập nội dung Nghị quyết 10 và đề ra kế hoạch thực hiện.
Những năm 1988-1991, Đảng bộ và nhân dân vẫn phải xoay xở với chương trình lương thực - thực phẩm, tốc độ tăng trưởng về kinh tế chậm, nhưng đã có những dấu hiệu khả quan. Các biện pháp tăng năng suất cây trồng, ứng dụng khoa học kỹ thuật, đưa giống cây, con vào sản xuất xen canh gối vụ được triển khai.Trong lĩnh vực kinh tế đạt được những thành tựu đáng khả quan.
Năm 1987-1988, xây cống và hệ thống máng dẫn nước vượt cống Hói Bãi, đưa nước về tưới các cánh đồng HTX Tiền Phong và làng cũ Yên Phú (đã xây cống qua quốc lộ 1A năm 1981-1982. Cùng năm này (9/1987), xây dựng 3 máng qua khe đưa nước về các cánh đồng làng Kim Lung. Những năm 1987-1988, đắp tiếp đê 2, xây cống bằng bê tông.
Năm 1994-1995, cống và đê 2 được nhà nước đầu tư xây dựng hoàn chỉnh theo chương trình Pam về đê biển quốc gia. Năm 1993, hoàn thành cầu máng Ngọc Huy dài 32m, đưa nước vượt kênh nhà Lê sang làng Ngọc Huy.
Đến năm 1995, vấn đề thuỷ nông trên quê hương đã được hoàn chỉnh. Hơn 100 héc ta đất vùng Hói Bãi từng hoang vu, ngập mặn bao đời trải qua hàng chục năm phấn đấu gian khổ của nhiều thế hệ nhân dân, đã đưa vào sản xuất 2 vụ lúa ổn định mỗi năm. hàng trăm héc ta khác ở các cánh đồng thuộc cả 3 khu vực đã được chủ động về nguồn nước tưới tiêu khi hạn, úng.
Chăn nuôi cũng đạt nhiều kết quả: tổng đàn bò toàn xã có 654 con, tổng đàn lợn 1.200 con, đàn gia cầm 6.000 con. Chăn nuôi theo hình thức hộ gia đình bước đầu phát triển.
Những năm từ 1980-1990, nạn phá rừng hoành hành ở nhiều vùng trong tỉnh. Trên quê hương Mai Hùng nhiều rừng thông quý giá vùng tây nam xã (từ rú Thờ đến rú Lão), bị tàn phá tan, việc bảo vệ rừng có lúc trở thành vấn đề nan giải.
Năm 1992, Hội Cựu chiến binh xã đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ rừng một thời gian nhưng vẫn chưa có hiệu quả.
Từ năm 1993, do sự mạnh dạn và sáng tạo của cán bộ địa phương lần đầu tiên thử nghiệm thành công việc giao rừng cho hộ nông dân khai thác và bảo vệ. Ông Lê Hữu Trí nhận khoán đầu tiên 30 hecta. 60 hộ gia đình nhận khoán (bảo vệ và khai thác), gần 100 hecta rừng thông đặc sản đã có chủ.
Trồng cây phân tán và trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc được đẩy mạnh những năm từ 1983 đến nay. Đến năm 1995 đã trồng được 260 hécta cây xanh theo dự án 4304 và 327. Gồm các loại cây keo lá tràm, thông, bạch đàn giao cho 200 hộ nhận trồng và bảo vệ. Nếu tính cả gần 100 hecta rừng cũ thì hầu hết diện tích đất rừng đã được trồng cây. Nhiều tổ chức quần chúng hăng hái đi đầu trong phong trào trồng cây “lục hoá quê hương" ông Văn Đức Thuân, nhận trên hàng chục hecta. Hàng nghìn cây phân tán các loại như bạch đàn, phi lao được nhân dân trồng rải rác trên các mảnh đồi, vườn nhà. Đặc biệt, cây hoè được trồng phổ biến khắp các làng thay thế vườn cau, mít ở một số làng trước đây. Cây xanh đã tạo thành thảm thực vật đa dạng, phong phú, vừa mang lại giá trị kinh tế vừa góp phần cải tạo môi trường quê hương.
Tháng 11/1991, Đại hội Đảng bộ lần thứ XV được diễn ra. Đây là Đại hội mở đầu cho thời kỳ trên quê hương có nhiều đổi mới, tiến công vào xây dựng cơ sở vật chất: điện - đường- trường - trạm - giao thông thuỷ lợi... Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành và được phân công:
Đồng chí:  Nguyễn Trọng Lợi, Bí thư Đảng ủy
Đồng chí: Nguyễn Văn Tuấn, trực đảng.
Đồng chí: Văn Đức Ưng, Chủ tịch UBND
Tháng 9/1994, Đại hội Đảng bộ lần thứ XVI, nhiệm kỳ 1994-1996 được tổ chức. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành và phân công:
1. Nguyễn Trọng Lợi, Bí thư Đảng ủy
2. Nguyễn Văn Tuấn, Phó Bí thư, trực đảng
3. Văn Đức Ưng, Chủ tịch UBND
 
Trong những năm từ 1992 đến 1994, địa phương tiến hành xây dựng các trạm biến thế và đường dây nhằm đưa điện lưới quốc gia về quê hương.
Xây dựng 3 trạm biến thế điện, công suất 250KVA/trạm, kinh phí xây dựng hơn 1 tỷ đồng.
Các công trình điện khí hoá nông thôn là thành tựu nổi bật nhất thời kỳ đổi mới của đất nước. Đối với quê hương Mai Hùng, cùng với vấn đề nguồn nước tưới, điện khí hoá đánh dấu một bước ngoặt lớn đối với sản xuất và đời sống nhân dân. Cầu qua kênh nhà Lê và đường giao thông từng gây nỗi khó khăn vất vả cho sự giao lưu giữa các làng quê hương từ bao đời nay được đưa vào chương trình nghị sự. Những năm từ 1990 đến nay, đường làng và đường liên thôn liên tục được cải tạo và mở rộng, nâng cấp, tạo sự giao lưu thuận tiện giữa các vùng.
Năm 1993, xây dựng cầu qua kênh nhà Lê.
Trạm y tế xã được xây dựng mới năm 1989 và nhận được trang thiết bị của chương trình y tế Uynixép (Liên hợp quốc).
Trường học được xây dựng mới khang trang cả 3 khu vực (cấp 1) và trường cấp 2 (ở rú Nhã). Từ năm 1991-1995, xây dựng mới 24 phòng học, đóng mới 24 bộ bàn ghế.
Trụ sở hành chính đang được xây dựng mới tại khu trung tâm xã. Với sự phát triển của kinh tế thời kỳ đổi mới, đang dần dần hình thành khu thương nghiệp dịch vụ trên hơn 1km quốc lộ 1A đi qua vùng trung tâm. Tại đây nhiều nhà cửa kiên cố, các quầy hàng thương nghiệp, các ngành nghề cơ khí, dịch vụ đang được hình thành và phát triển.
Văn hoá xã hội đời sống.
Từ khi hoàn thành thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ đến nay, nhiều chiến dịch văn hoá được thực hiện trên địa bàn xã nhằm chống các tệ nạn xã hội, xây dựng gia đình văn hoá mới và con người mới. Các phương tiện thông tin đại chúng đã trở thành phổ biến, trong nhân dân, tạo sự thuận lợi cho việc nâng cao dân trí và giáo dục văn hoá mới.
Các phong trào văn hoá quần chúng và thể thao đã phát triển trong các khu vực dân cư và trong mọi lứa tuổi.
Năm 1990, đội bóng đá xã được giải nhì huyện trong đợt tranh giải bóng đá toàn huyện.
Năm 1994, 2 mẹ con bà Hồ Thị Tam làng Ngọc Huy và năm 1995 ông Trần Huy Thợc (làng Kim Lung) được giải trong các đợt liên hoan “tiếng hát dâng người” và “tiếng hát tuổi già” toàn huyện. Được huyện tặng bằng khen cho tập thể Hội Phụ lão xã về thành tích này.
Sau chiến tranh chống Mỹ, một thời kỳ dài đất nước gặp khó khăn, đời sống nhân dân thiếu đói, căng thẳng, ảnh hưởng tới việc phát triển giáo dục. Tình trạng đó được khắc phục từ khi đất nước bước sang thời kỳ đổi mới.
Trường học cấp 1 cấp 2 được xây dựng hoàn chỉnh năm 1994, chất lượng dạy và học được nâng lên. Năm học 1993-1994, có 14 em là học sinh giỏi huyện, trong đó có 1 em đạt thứ hai học sinh giỏi tỉnh.
Từ năm 1989 đến năm 1994, trong quãng thời gian 5-7 năm nhờ các yếu tố tổng hợp nêu trên, vấn đề lương thực đã được giải quyết về cơ bản. Cùng thời gian đó, những sự thuận lợi được tạo ra trong thời kỳ đổi mới đã thúc đẩy sản xuất và đời sống phát triển chưa từng có. Trên quê hương các công trình kinh tế - xã hội như điện - đường - trường - trạm, chương trình chăm sóc sức khoẻ, xoá đói giảm nghèo, khen thưởng người có công trong kháng chiến được từng bước thực hiện, đã nâng cao rõ nét về đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bức tranh quê hương thay đổi từng ngày theo hướng hiện đại văn minh. Gần 100% nhà ở nhân dân được ngói hoá và xi măng hoá. Nhiều nhà cửa to đẹp đàng hoàng đã mọc lên. Cứ 8 hộ dân có 1 tivi, toàn xã có hơn 100 xe máy và các loại động cơ máy móc lớn nhỏ, chưa kể các dụng cụ và tiện nghi hiện đại khác đã trở thành phổ biến trong nhân dân. Đến năm 1994, số hộ giàu, khá, trung bình (tính mức thu nhập từ 8 triệu đồng/năm trở lên) đã chiếm tới hơn 70%. Số hộ nghèo và đói còn dưới 30% dân số.
Từ ngày 20-21/10/1996, Đại hội đại biểu lần thứ XVII (nhiệm kỳ 1996- 2000), Đại hội đánh giá kiểm điểm một năm 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XVI của Đảng bộ), Đại hội được tổ chức tại hội trường về dự Đại hội có 97 đại biểu thay mặt cho 195 đảng viên của toàn Đảng bộ. Dự và chỉ đạo Đại hội có đồng chí Hồ Tất Thắng, Tỉnh ủy viên - Bí thư Huyện ủy, cùng các đồng chí đại biểu các ban ngành, đoàn thể cấp huyện. Chủ đề của Đại hội: "Phát huy truyền thống, khắc phục khó khăn, cần cù, chịu khó của nhân dân. Cán bộ đảng viên và nhân đoàn kết nhất trí xung quanh BCH, quyết tâm phấn đấu hoàn thành các Nghị quyết của Đảng vì mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh ". Xây dựng bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới, cuộc sống của nhân dân được cải thiện, an ninh quốc phòng được giữ vững, các mục tiêu Nghị quyết đề ra tại Đại hội XVI đã đạt được những kết quả quan trọng. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành và được phân công:
Đồng chí: Nguyễn Trọng Lợi, tái cử Bí thư Đảng ủy. (tháng 3/1997, đồng chí Lợi bị tai nạn mất, tháng 7/1997 đồng chí Văn Đức Ưng - Chủ tịch UBND lên thay. Đồng chí Nguyễn Đức Hiên - Phó Chủ tịch thay đồng chí Văn Đức Ưng).
Đồng chí: Nguyễn Văn Tuấn, Phó Bí thư, trực đảng
Đại hội đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XVI đề ra. Năm 1995 đạt 10,1 tỷ đồng vươt 0,8% so với kế hoạch. Bình quân thu nhập đầu người đạt 1.394.000 đồng.
    Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, năm 1995 sản lượng lương thực đạt 2932 tấn. Trong ba năm liền 1992 - 1994, sản lượng liên tục tăng. Mức tăng bình quần quân hàng năm đạt 18,5%. Những kết quả đạt được là nhờ sự vận dụng, năng động chủ trương đường lối của Đảng, đặc biệt là từ khi có Nghị quyết Trung ương V khóa VII về đổi mới lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn. Đảng ủy tập trung chỉ đạo cơ cấu kinh tế, quy hoạch mùa vụ cây trồng thâm canh tăng vụ, đưa các loại giống mới, cây trồng có năng suất cao vào sản xuất, né trách thiên tai. Chỉ đạo chặt chẽ các HTX nông nghiệp làm tốt các khâu: lịch thời vụ, thủy lợi, dự báo sâu bệnh v.v... Ngoài việc chỉ đạo hai vụ chính là lúa, tiến tới chỉ đạo vụ Đông chuyển thành vụ chính. Từ 70 ha của năm 1994 lên 90 ha của năm 1995. Sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng bộ cùng sự vận động thuyết phục của các đoàn thể và sự năng động của chính quyền nên đã khơi dậy tiềm năng kinh tế vốn có của địa phương, sức lao động trong nhân dân được phát huy, huy động được nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp, giải quyết được cơ bản về khâu lương thực, đời sống của nhân dân được nâng lên. Kinh tế từ nay có tích lũy xóa bỏ tình trạng trong thời kỳ giáp hạt phải chạy ngược - xuôi có lúc là cả đích thân Bí thư - Chủ tịch chạy miền ngược vào Nam để mua Luơng thực về phân phối cho dân.
Nghề chăn nuôi được đa dạng hóa. Đàn hươu sao từ 300 con của năm 1994 lên 330 con năm 1995. Đàn trâu, bò phát triển mạnh từ 760 con lên 850 con. Nhiều hộ gia đình chăn nuôi lợn hàng năm đạt 500-600 kg lợn hơi. Bình quân mỗi hộ nuôi từ 1-2 con, trọng lượng xuất chuồng mỗi con đạt trung bình 65-70 kg. Gia súc gia cầm phát triển. Các ngành nghề được mở rộng, nghề truyền thống: Rèn, mộc, thợ nề...được hình thành phát triển hai bên đường quốc lộ 1A. Nhiều quầy hàng dịch vụ vật liệu xây dựng, đồ dùng dân dụng, thu mua nông sản, sửa chữ xe máy, hàn xì, xưởng cưa... xuất hiện đưa lại thu nhập cao, tạo công ăn việc làm cho nhiều người lao động lúc nông nhàn. Hộ khá giả đã sắm phương tiện xe khách, xe vận tải vận chuyển hàng hóa đi các nơi. Tu sửa cống V5 đê 2, bảo đảm cho sản xuất và nuôi trồng thủy hải sản. Các HTX đã có sự chuyển đổi theo đề án 400 của huyện và Nghị quyết 18 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, đó là làm chức năng dịch vụ nông nghiệp, hướng sản xuất.
Thực hiện Nghị định 64/CP của Chính phủ về giao đất, giao rừng lâu dài đến hộ xã viên, Đảng ủy lên phương án thông báo cho dân, thực hiện Nghị định 64 có 370 ha đất nông nghiệp được giao đến tận hộ xã viên. 100 ha rừng chủ yếu là cây thông được cấp lâm bạ đến từng hộ, được dân đồng tình, chấm dứt nạn phá rừng và bảo vệ được rừng, bước đầu đưa lại hiệu quả kinh tế. 260 ha rừng được phủ xanh theo dự án 4304 và 327 đã tạo ra một diện mạo mới. Trên những mảnh đất rừng được giao đã mọc lên những loại cây hòe, nhãn, vải thiều, hồng xiêm, táo, ổi. Từ đất trống đồi trọc trở thành những vườn cây xanh tốt, đưa lại độ che phủ, giữ gìn môi trường và đem lại hiệu quả kinh tế.
Từ đại hội XVI đến đại hội XVII trên lĩnh vực kinh tế có nhiều bước phát triển, chứng tỏ Nghị quyết đại hội của Đảng bộ đã thực sự đã đi vào cuộc sống, tạo tiền đề cho kinh tế phát triển trong những năm tiếp theo.
Kinh tế phát triển thúc đẩy công trình phúc lợi: điện - đường - trường - trạm được triển khai và xây dựng.
Đường điện được thắp sáng được xây dựng tiếp 4,5 km cho các thôn 18, 19, 7. Tiếp tục củng cố và hoàn thiện đường điện đi các thôn 1, 6, 13, 16, 17 đảm bảo từ hai đến ba pha. Thay thế các cột gỗ bằng trụ cột bê tông bền vững để bảo đảm an toàn trong khi sử dụng.
Các tuyến đường giao thông liên xã, liên thôn, liên tông- ngõ từng bước được nâng cấp và mở rộng được nhựa và bê tông hóa.
Sự nghiệp văn hóa - xã hội được Đảng bộ cơ quan quan tâm nhiều hơn. Năm 1995, xây dựng mới 7 phòng học nhà cấp bốn, tu sửa vừa và xây mới 5 phòng học khác. Đóng mới 130 bộ bàn ghế cho học sinh. Đảm bảo tương đối cơ sở vật chất cho nhà trường bước vào khai giảng khóa học 1995-1996, số học sinh đến trường 2.200 em, tăng so với khóa học 1994-1995 là 10%, so với khóa học 1993-1994 tăng 17,5%,  chất lượng dạy và học từng bước được nâng lên, số học sinh giỏi huyện năm 1993 có 7 em, khóa học 1994-1995 đã tăng gấp hai lần (14 em) trong đó có một em đạt giải nhì tỉnh. Đã tiến hành san ủi làm mới sân vận động ở trung tâm.
Công tác chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho nhân dân và thực hiện KHHGĐ được quan tâm. Đội ngũ y tế được kiện toàn, nhiệt tình, làm tốt công tác phòng ngừa dịch bệnh. Thực hiện các biện pháp tẩm màn, tiêm chủng, đặt vòng tránh thai. Năm 1995, có 190 người đặt vòng tránh thai, có 34 ca đình sản, đạt 165% chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Tỷ lệ sinh đạt 2,2% giảm 0,3% so với năm 1994. Các phong trào xây dựng gia đình văn hóa, phong trào thể dục thể thao, tổ chức các ngày lễ hội lớn đã tạo ra khí thế vui vẻ, đồng thuận trong nhân dân giúp nhau; vươn lên xóa đói giảm nghèo, xây dựng nếp sống văn minh trong thôn, xóm.
An ninh - quốc phòng được giữ vững. Thanh niên hăng hái lên đường nhập ngũ. Chỉ tiêu giao quân luôn đạt và vượt mức trên giao. Các vụ việc gây rối, kiện cáo giảm, năm 1994 có 17, vụ năm 1995 còn 10 vụ, giảm 40%. Chính sách đối với gia đình thương binh liệt sỹ, gia đình có công với nước, theo chủ trương chính sách của trên được Đảng bộ quan tâm giải quyết kịp thời, 7 trường hợp mẹ liệt sỹ được hưởng chế độ xuất nuôi dưỡng. Đề nghị các bà mẹ được phong tặng danh hiệu cao quý “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Làm tốt các phong trào đền ơn đáp nghĩa, áo lụa tặng bà đã tạo ra được niềm tin trong nhân dân, hướng về đạo lý “uống nước nhớ nguồn”.
Có được kết quả trên là nhờ Đảng bộ đã vận dụng đúng dắn, sáng tạo các Nghị quyết Trung ương, của tỉnh, đặc biệt là Nghị quyết 22 và Nghị quyết giữa hai nhiệm kỳ của Đảng bộ huyện vào điều kiện xã nhà một cách sát đúng. Đã đề ra được các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phù hợp, phát huy được sức mạnh cộng đồng, huy động được mọi nguồn lực và tiềm năng hiện có. Bộ máy cán bộ từ xã đến cơ sở được kiện toàn, nâng cao được chất lượng hoạt động đồng bộ nhiệt tình, sâu sát sáng tạo, xây dựng quy chế làm việc thực hiện có hiệu quả. Sự phối hợp đồng bộ của cả hệ thống chính trị đã cụ thể hóa các chương trình, nghị quyết của Đảng, tạo được các phong trào hành động cách mạng trong quần chúng. Thường xuyên được sự quan tâm của Ban thường vụ Huyện ủy và sự chỉ đạo sát sao của các ban, ngành, đoàn thể cấp huyện và sự cổ vũ động viên của các xã xung quanh.
Nhờ xác định nhiệm vụ đúng trọng tâm, trọng điểm, phân công chỉ đạo kiểm tra chặt chẽ, từ đó khơi dậy được phong trào thi đua thực hiện có hiệu quả dứt điểm từng khâu, từng nhiệm vụ đề ra. Đại hội lần thứ XVII là một bước tiến mới đưa Đảng bộ đạt danh hiệu Đảng bộ vững mạnh, trong sạch sau nhiều năm chỉ nằm trong tốp khá.
Đại hội Đại biểu Đảng bộ xã Mai Hùng khóa XVIII (nhiệm kỳ 2000-2005), được tổ chức trong hai ngày 24-25/10/2000 tại hội trường xã, tham dự Đại hội có 123 Đại biểu thay mặt cho 221 đảng viên của toàn Đảng bộ. Về dự và chỉ đạo Đại hội có đồng chí Chu Xuân Thắng Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện và các đồng chí đại biểu thay mặt cho các đoàn thể, ban ngành cấp huyện. Đại hội đã đánh giá kết quả nhiệm kỳ qua, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội 2001-2005, Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành và được phân công:
      Đồng chí:  Nguyễn Văn Tuấn, Bí thư Đảng ủy
      Đồng chí:  Lê Công Thụ, Phó Bí thư tổ chức
      Đồng chí:  Nguyễn Đức Hiên, Phó Bí thư, Chủ tịch UBND
      Chủ đề của Đại hội: “Tập trung mọi nguồn lực, khai thác tiềm năng đất đai để chuyển dịch kinh tế theo hướng CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn gắn liền với việc giải quyết những vấn đề xã hội, chuyển biến mạnh mẽ về vấn đề văn hóa, giáo dục, y tế và dân số. Ổn định tình hình chính trị quốc phòng - an ninh, nâng cao năng lực lãnh đạo, tăng cường công tác đảng, xây dựng bộ máy chính quyền và đoàn thể vững mạnh.
Trong 5 năm (1996-2000), Đảng bộ liên tục đạt trong sạch vững mạnh, đảng viên hoàn thành và hoàn thành suất sắc nhiệm vụ 173/221 đồng chí, chiếm 78,28%, tăng 13,78% so với năm 1996. Công tác sắp xếp lại cán bộ được xây dựng quy củ, đủ cho quy hoạch các nhiệm kỳ tiếp theo. Xây dựng chính quyền, kiện toàn bộ máy theo hướng cải cách hành chính, xây dựng quy chế hoạt động, luôn bám sát nghị quyết của Đảng ủy, HĐND cùng cấp và các cơ quan cấp trên chỉ đạo, thực hiện kịp thời và có hiệu quả thiết thực.
Thực hiện quy chế dân chủ theo Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 29/CP của Chính phủ về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo chính quyền và các đoàn thể tổ chức tuyên truyền giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ và phát huy quyền và nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chấp hành các quy định của địa phương. Tiếp tục thực hiện tốt “dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”, bảo đảm lòng tin của dân đối với Đảng. Các tổ chức đoàn thể trong hệ thống chính trị luôn luôn bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, của ngành, đoàn thể mình và hoàn thành suất sắc nhiệm vụ được giao.
Kết quả của nhiệm kỳ 1996 -2000 là đáng khích lệ. Tổng sản phẩm xã hội (GDP) tăng bình quân hàng năm đạt 14,8%. Tổng thu nhập năm 1996, đạt 12 tỷ, năm 2000 đạt 23 tỷ. Bình quân thu nhập đầu người năm 1996 đạt 1.600.000 đồng/người/năm. Năm 2000 đạt 2.780.000 đồng/người/năm, tăng gần hai lần so với năm 1996.
Nông nghiệp tăng trưởng khá, giá trị thu nhập trên 1 ha canh tác năm 1996 đạt 15,5 triệu đồng, năm 2000 đạt 24,3 triệu đồng, tăng hơn năm 1996 là 8,9 triệu đồng. Bình quân lương thực năm 1996 đạt 360kg/người/năm, năm 2000 đạt 540kg/người/năm, tăng so với năm 1996 là 180kg.
Chăn nuôi có chiều hướng tăng tích cực, năm 1996 đạt 8,8 tỷ đồng, năm 2000 đạt 13,9 tỷ đồng.
Lâm nghiệp vườn rừng: Rừng được củng cố tu bổ, công tác quản lý chăm sóc rừng được chú trọng. Phong trào cải tạo vườn tạp thành vườn chuyên được phát triển rộng rãi.
Ngành nghề dịch vụ được mở ra và đa dạng hoá, năm 1996 thu 1,7 tỷ đồng, năm 2000 đạt 6,35 tỷ đồng, tăng 3,4 tỷ đồng. Các ngành nghề mới xuất hiện ngày càng nhiều. Trong xây dựng cơ bản có bước tiến bộ, đầu tư trên 3,3 tỷ, đã xây dựng trụ sở làm việc 2 tầng, trường học 34/20 phòng theo kế hoạch. Bê tông hoá 5/7 km đường cấp phối. Mức huy động đóng góp của dân và học sinh đạt 35,4% cho các công trình.
Các HTX có hướng chuyển đổi tích cực. Đóng góp một phần lớn vào xây dựng cơ sở hạ tầng. Hướng dẫn nông dân áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật. Sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế, chính sách xã hội có nhiều tiến bộ, hoạt động văn hoá, thể dục thể thao có nhiều chuyển biến. Hệ thống thông tin tuyên truyền ngày càng được nâng lên. Năm 1996 chưa có máy điện thoại, năm 2000 có 46 máy, trung bình 33 hộ có một máy điện thoại. Đời sống vật chất tinh thần được cải thiện, tệ nạn xã hội và các hủ tục lạc hậu từng bước được đẩy lùi.
Chất lượng giáo dục ngày được nâng cao, đội ngũ giáo viên, học sinh giỏi ngày càng nhiều, tỷ lệ học sinh bỏ học giảm. Năm 2000, số học sinh giỏi huyện 49 em, 2 em đạt học sinh giỏi tỉnh, tăng hơn năm 1996 là 26 em. Tỷ lệ học sinh đậu vào các trường Đại học, cao đẳng ngày càng nhiều. Từ năm 1996-2000 có 80 em, trong đó có 22 em đậu đại học. Công tác y tế duy trì tốt các chương trình tiêm chủng mở rộng, chống sốt rét. Thực hiện tốt KHHGĐ, làm tốt công tác y tế dự phòng.
Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh và hoạt động của công tác nội chính có những nỗ lực lớn, góp phần đảm bảo ổn định tình hình an ninh chính trị địa phương. Thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng cơ sở an toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu, hoàn thành kế hoạch gọi tuyển thanh niên nhập ngũ và huấn luyện hàng năm. Xây dựng và củng cố lực lượng dân quân, quân dự bị động viên. Công tác an ninh trật tự - an toàn xã hội ổn định. Giải quyết tốt mâu thuẫn nội bộ nhân dân. Các tổ hoà giải cơ sở hoạt động có hiệu quả, hạn chế các vụ việc xẩy ra. Năm 1996, xẩy ra 29 vụ lớn nhỏ, năm 2000 có 14 vụ, giảm 12 vụ. Ban công an xã nhiều năm đạt đơn vị quyết thắng.
Từ ngày 17-18/7/2005, Đại hội đại biểu xã Mai Hùng khoá XIX (nhiệm kỳ 2005-2010) được diễn ra tại hội trường xã Mai Hùng, dự Đại hội có 145 Đại biểu thay mặt cho 263 đảng viên của toàn Đảng bộ. Về dự và chỉ đạo Đại hội có các đồng chí Lê Thành Nhân, UVBTV - Trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy cùng đại diện các ban, ngành cấp huyện. Chủ đề của Đại hội: “Phát huy tính tự chủ, huy động tối đa nội lực tranh thủ thu hút đầu tư hỗ trợ từ bên ngoài. Khai thác mọi tiềm năng lợi thế để đẩy mạnh tăng tốc kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại và nông nghiệp. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội - nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo vệ sinh môi trường sinh thái. Chăm lo giúp đỡ gia đình chính sách, hộ nghèo. Giải quyết các vấn đề bức xúc, tệ nạn xã hội. Phát triển văn hoá ngang tầm với phát triển kinh tế, đảm bảo ổn định chính trị, tăng cường củng cố quốc phòng an ninh vững chắc. Xây dựng Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể ngày càng vững mạnh đáp ứng sự nghiệp CNH - HĐH nông ngiệp nông thôn. Phấn đấu xây dựng xã nhà giàu đẹp, sớm trở thành xã văn hoá". Đại hội đánh giá nhiệm kỳ qua và bầu Ban Chấp hành, phân công như sau:
      Đồng chí Nguyễn Văn Tuấn, tái cử Bí thư Đảng uỷ
      Đồng chí Nguyễn Xuân Bốn, Phó Bí thư trực đảng
      Đồng chí Lê Công Thụ, Phó Bí thư - Chủ tịch UBND
Các chỉ tiêu nhiệm kỳ đưa ra đều đạt và vượt. Tổng giá trị sản xuất năm 2005 là 41 tỷ 963 triệu đồng, tăng so với năm 2000 là 19,263 triệu đồng. Tốc độ tăng tưởng Bình quân 5 năm đạt 11,9%, trong đó nông - lâm - nghiệp 22 tỷ 483 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 53,6%. Tiểu thủ công nghiệp và xây dựng dịch vụ thương mại 19 tỷ 483 triệu đồng, chiếm 46,4%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2005 ước đạt 5.140.000 đồng, tăng 1,8 lần so với năm 2000. Sản lượng lương thực năm 2005 ước đạt 3196 tấn, tăng 575 lần. Bình quân lương thực đầu người đạt 392 kg. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, từ sản suất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hoá có tính tập trung hơn, cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng giảm lao động nông nghiệp, tăng lao động dịch vụ, ngành nghề xây dựng, hình thành chợ thương mại, các Công ty TNHH ra đời. Năm 2005-2010, nhiệm kỳ XX, tổng giá trị sản xuất lên 95,52 tỷ, tăng gấp 2,27 lần so với năm 2005. Thu nhập bình quân đầu người năm 2004 đạt 4.658.000 đồng tăng so với năm 2000 đạt 65,9%. Năm 2010 đạt 11.100.000 đồng. Sản lượng lương thực đạt 3.100 tấn, bình quân đầu người đạt 383 kg. Đời sống của nhân dân được cải thiện, diện mạo nông thôn ngày càng đổi mới.
Trên lĩnh vực sản xuất nông - lâm - ngư nghiêp có nhiều khởi sắc.
Nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, ổn định. Tốc độ tăng tưởng bình quân 5 năm (2000-2005) đạt 12,1%. Việc chuyển đổi đất nông nghiệp, tạo thành vùng sản xuất tập trung có quy mô lớn, thuận lợi cho việc đưa cơ giới vào sản xuất. Vụ đông thực sự trở thành vụ chính cho giá trị cao. Cây ngô đông, khoai tây và các loại cây màu cao cấp ngày càng chiếm ưu thế. Đã ứng dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học - kỹ thật vào sản xuất như lúa lai, lạc sen tạo sản phẩm hàng hoá có chất lượng. Mở rộng diện tích hè thu, mùa sớm nhằm né tránh thiên tai. Lúa, ngô, lạc đã cho năng suất sản lượng tăng khá. Diện tích lúa lai năm 2000 chiếm 63%, năm 2005 tăng lên 95%, năng suất lúa Bình quân đạt 58 tạ/ha, tăng so với năm 2000 tăng 2 tạ/ha.
Trồng trọt tăng khá, chăn nuôi có chiều hướng phát triển. Đàn trâu 328 con, tăng 84 con, đàn bò 1.044 con, tăng 102 con so với năm 2000. Lợn thịt 6.928 con, tăng 1.756 con so với năm 2000, trọng lượng thịt suất chuồng đạt 415 tấn; lợn nái 387 con sinh sản được 6.966 con đáp ứng được nhu cầu về giống. Đàn gia cầm tăng trưởng nhanh đạt 51.230 con, trọng lượng xuất chuồng đạt 74 tấn. Bước đầu khôi phục đàn hươu và mở ra nhiều nghề chăn nuôi mới. Nhiều nghề mới xuất hiện như: nuôi ong, nuôi nhím, nuôi trồng thuỷ hải sản. Tổng diện tích nuôi tôm 54 ha. Sản lượng tôm năm 2005 ước đạt 21,3 tấn, giá trị ước đạt 1,5 tỷ đồng
Lâm nghiệp được quan tâm, đảm bảo tốt công tác chăm sóc, bảo vệ, phòng chống cháy rừng và khai thác nguồn lợi từ rừng; giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt gần 3 tỷ đồng, tăng gần 1 tỷ đồng, vượt chỉ tiêu đại hội 8,3%.
Công nghiệp, tiểu thủ thủ công và xây dựng phát triển đúng hướng, trong đó chủ yếu là chế biến nông sản đồ gỗ, sản xuất vật liệu xây dựng, sửa chữa ô tô, xe máy, điện tử... thu hút trên địa bàn hơn 500 lao động có việc làm thường xuyên và cho thu nhập ổn định.
      Lĩnh vực xây dựng cơ bản được Đảng bộ quan tâm, nhất là các công trình phúc lợi xã hội, phục vụ đời sống dân sinh và phát triển theo chỉ tiêu đại hội đề ra.
      Về xây dựng cơ bản đã hoàn thành 3 km đường nhựa, 9,7 km đường bê tông, 8 phòng học cao tầng cho Trường Tiểu học khu vực trung tâm, nhà văn phòng ba trường học; xây dựng trạm xã. Nạo vét dòng chảy và nâng cấp đê viền khu vực Tiền Phong. Tập trung xây dựng tràn bờ Trịch, nâng cấp nắn cống đê II và bê tông hoá 8,2km kênh mương. Tổng kinh phí đầu tư các công trình đạt 5,297 tỷ đồng.
      Lĩnh vực văn hoá, thông tin thể thao được quan tâm. Đã đẩy mạnh tực hiện cuộc vận đông “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao được đẩy mạnh. Đảng uỷ chỉ đạo xây dựng thiết chế văn hoá - thông tin thể thao đồng bộ đi vào hoạt động, tạo sự chuyển biến rõ nét.
      Phong trào văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, thông tin tuyên truyền phát triển rộng khắp ở cơ sở. Vào các ngày lễ, tết. Đảng uỷ quan tâm tốt đến các đơn vị, cơ sở phục vụ cho văn hoá thể thao, xây dựng nhà văn hoá xóm. Có  Có 7/21 xóm, trường học được công nhận đơn vị văn hoá, tăng 6 đơn vị so với nhiệm kỳ trước. Tỷ lệ văn hoá năm 2005 đạt 80%.
  Phong trào xây dựng nhà văn hoá được đẩy mạnh. Các di tích văn hoá - lịch sử, lễ hội truyền thống đang dần được khôi phục như: đền Kim Lung, đền Ngọc Huy..., các hoạt động tín ngưỡng tâm linh và những việc làm từ thiện được Đảng bộ quan tâm.
     
     
 
 
Sự nghiệp giáo dục có những chuyển biến đạt được nhiều thành tích cả về quy mô phát triển trường lớp, cả về chất lượng giáo dục. Công tác giáo dục thực sự được xã hội hoá thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển toàn diện. Nhiệm kỳ 2000-2005 cơ sở trường học được đầu tư mạnh, xây dựng trường tiểu học cao tầng, trường mầm non trung tâm, cải tạo khuôn viên cây cảnh trong các trường học, trụ sở làm việc, trạm xá. Tổng đầu tư cho xây dựng, mua sắm cơ sở vật chất cả nhiệm kỳ 1tỷ 247 triệu đồng, cơ bản đáp ứng nhu cầu cho công tác dạy học, xoá hẳn việc học tạm trong dân đối với hệ mầm non.
      Chất lượng giáo dục được nâng lên toàn diện. Tỷ lệ học sinh đậu tốt nghiệp ở cấp tiểu học, đạt 99,8%, trung học cơ sở đạt 98%. Số học sinh giỏi năm sau cao hơn năm trước, năm 2000 có 2 lượt em giỏi tỉnh, 49 lượt em giỏi huyện, đến năm học 2003-2004, có 5 em giỏi tỉnh, 158 em giỏi huyện. Số học sinh thi đậu vào các trường đại học tăng, năm 2000 có 10 em, năm 2003-2004, có 33 em. Đội ngũ giáo viên được chuẩn hoá đáp ứng yêu cầu sự nghiệp giáo dục.  
 
      Công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực, nhiệm kỳ 2000-2005 đã khám tại trạm cho 1.568 lượt người, tăng 865 lượt người so với nhiệm kỳ 1996-2000. Thực hiện tốt các chương trình quốc gia về y tế dự phòng; đội ngũ cán bộ y tế từ trạm đến xóm đủ về số lượng, nhiệt tình và trách nhiệm cao.
      Các chính sách xã hội được Đảng uỷ quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ, đảm bảo sự công bằng, đối tượng theo quy định, tiêu chuẩn của Nhà nước. Nhất là việc xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa. Trong nhiệm kỳ đã vận động được 36 triệu đồng, cùng với sự hỗ trợ của cấp trên đã làm một nhà tình nghĩa, 8 nhà đại đoàn kết, trong đó có một nhà ở dân tộc Tân Thắng...
      Công tác quốc phòng an ninh luôn được quan tâm đúng mức, việc giáo dục ý thức pháp luật tronh nhân dân được chú trọng nên các vụ việc xẩy ra trên địa bàn ngày càng một giảm, không có trọng án xẩy ra, giải quyết dứt điểm các vụ mâu thuẫn, không có đơn thư khiếu kiện vượt cấp; luôn tôn trọng ý kiến quần chúng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
      Đã thường xuyên chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; tổ chức quán triệt, học tập và triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước một cách nghiêm túc và có hiệu quả.
Công tác bồi dưỡng, xây dựng bổ sung quy hoạch cán bộ được quan tâm đúng mức đảm bảo ba độ tuổi, từng bước chuẩn hoá đội ngũ cán bộ. Nhiệm kỳ 2000-2005 đã cử đi đào tạo bồi dưỡng được 44 đồng chí trong đó có 2 đồng chí học đại học, 3 đồng chí học trung cấp chuyên môn, 29 đồng chí học sơ cấp chính trị, 7 đồng chí học bổ túc văn hoá THPT. Việc đề bạt bố trí sử dụng cán bộ được tiến hành dân chủ, công khai, đúng quy trình. Gắn với việc nâng cao chất lượng cán bộ với kiện toàn bộ máy chính quyền, chi bộ đúng nhiệm kỳ, trẻ hoá bí thư chi bộ, thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả, xoá được chi bộ yếu kém, công tác phát triển đảng được quan tâm cả về số lượng, chất lượng. NhiÖm kú 2000-2005, cö ®i båi d­ìng 216 cán bộ, kÕt n¹p 54 đảng viên. Việc phân công nhiệm vụ đảng viên được thực hiện tốt, phù hợp với trình độ, năng lực, sức khoẻ và tuổi tác nên đại đa số đảng viên phát huy tính tiên phong gương mẫu, tính chiến đấu và năng lực lãnh đạo, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, chấp hành nghiêm túc quy định 19 điều đảng viên không được làm.
Nhiệm kỳ 2000-2005, là nhiệm kỳ mở đầu cho thiên nhiên kỷ mới. Đảng bộ và nhân dân Mai Hùng đã nỗ lực, cố gắng, bằng trí tuệ, sức lực của mình, khai thác mọi tiềm năng thế mạnh của địa phương, tranh thủ huy động tối đa sự hộ trợ của cấp trên, đã giành được nhiều thắng lợi trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế - xã hội phát triển, chính trị được ổn định, quốc phòng - an ninh được giữ vững.
Trong không khí phấn khởi, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, tiến lên công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, được sự chỉ đạo của Huyện uỷ, ngày 17-18/7/2010 Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Mai Hùng lần thứ XX (nhiệm kỳ 2010 - 2015) được tổ chức tại Hội trường xã, dự Đại hội có 150 đại biểu thay mặt cho 299 đảng viên. Về dự và chỉ đạo Đại hội có đồng chí Lê Thành Nhân, UVBTV - Trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy, cùng các đồng chí trong các ban, ngành đoàn thể cấp huyện.
Đại hội đã đánh giá nghiêm túc những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân; đề ra phương hướng mục tiêu với chủ đề: "Tiếp tục nâng cao năng lực và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, mở rộng tập hợp tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy nội lực, khơi dậy tiềm năng, tranh thủ sự giúp đỡ của cấp trên, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng an ninh, xây dựng chính quyền , mặt trận, các đoàn thể , xuất sắc, đảng bộ giữ vững danh hiệu trong sạch vững mạnh, xây dựng Mai Hùng là một trong những xã giàu nằm trong khu đô thị Hoàng Mai". Các chỉ tiêu chủ yếu được Đại hội đề ra:
Giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) đạt 195 - 198 tỷ đồng.
Tốc độ tăng trưởng bình quân 15 - 16%.
Trong đó nông - lâm - ngư nghiệp đạt 6,5 - 7 %.
Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng đạt 19 - 20%.
Dịch vụ, thương mại và các thu nhập khác đạt 18 - 19 %.
Tổng thể chung cơ cấu kinh tế đến năm 2015:
Nông nghiệp chiếm tỷ trọng từ 32 - 33%
Công nghiệp xây dựng từ 31 - 32%
Dịch vụ, thương mại đạt từ 29 - 30%
Giá trị tăng bình quân đầu người ước đạt 21 - 22 triệu đồng.
Mỗi ha sản xuất, giá trị đạt từ 63 - 65 triệu đồng.
Sản lượng lương thực đạt 3.450 - 3500 tấn.
Thu ngân sách tăng bình quân hàng năm 14 - 15 %, đến năm 2015 đạt 3,9 - 4 tỷ đồng.
Tỷ lệ gia đình văn hóa đạt 80 - 85 %, phấn đấu đạt 13/ 18 thôn đạt danh hiệu làng văn hóa.
Đảng bộ liên tục giữ vững danh hiệu TSVM.
Chính quyền, MTTQ, các đoàn thể hàng năm đạt xuất sắc.
 Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành và được phân công:
Đồng chí:  Nguyễn Xuân Bốn, Bí thư
Đồng chí:  Lê Hữu Trung, Phó Bí thư, trực đảng
Đồng chí:  Đậu Viết Hiên, Phó Bí thư, Chủ tịch UBND
Thực hiện Nghị quyết đại hội khoá XIX trong bối cảnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước ngày càng phát triển toàn diện, Đảng và Nhà nước ngày càng có nhiều chủ trương, chính sách phù hợp với nguyên vọng của nông dân, tạo động lực thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển. Vì vây, Mai Hùng đã thu được những kết quả nổi bật về kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị.
Tổng giá trị sản xuất năm 2010 ước đạt 95,52 tỷ đồng, tăng 2,27 lần so với năm 2005. Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm 15,2% (chỉ tiêu đại hội 15- 16%). Thu nhập bình quân đầu người ước đạt tăng gấp 3 lần năm 1996. Giá trị bình quân/ha canh tác đạt 46,3 triệu đồng (mục tiêu đại hội là 40 triệu đồng). Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 43,17 tỷ đồng. Đã tích cực chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học vào sản xuất; sản lượng lương thực đạt 3.389 tấn. Đã hình thành các vùng hàng hoá tập trung cho giá trị thu nhập thừ 70-80 triệu đồng/ha.
Chăn nuôi tiếp tục phát triển, đàn trâu 376 con, đàn bò 732 con, tăng 73 con so với nhiệm kỳ đầu, tỷ lệ bò Laisin chiếm 43,1%, đàn lợn 7.350 con. Đàn hươu 162 con tăng gấp 3 lần so với năm 2005. Tổng đàn gia cầm 61, tăng 31 nghìn con so với năm 2005. Thuỷ sản, nuôi tôm đạt 62 ha, tăng 6 ha so với năm 2005, năng suất bình quân 2,7tấn/ha.
Công nghiệp - xây dựng tiếp tục phát triển, giá trị sản xuất đạt 22,59 tỷ đồng, tăng bình quân hàng năm 21,95%. Toàn xã có 2 cơ sở đúc sò, 2 xưởng cưa, 14 cơ sở sản xuất đồ mộc... Trong nhiệm kỳ đã xây dựng 6 km đường nhừa và bê tông hoá kênh mương, đài tưởng niệm, sân vận động trung tâm... với ttổng đầu tư 6,6 tỷ đồng. Dịch vụ tăng trưởng nhanh, bình quân 24,58%, giá trị sản xuất đạt 28,76 tỷ đồng. Toàn xã có 10 Cty TNHH, tăng 6 cty so với năm 2005, có 29 xe tải, 11 máy xúc, 5 máy làm đất. Các loại hình dịch vụ phát triển khá đa dạng ở hầu hết các thôn, xóm như: Dịch vụ vận tải, cung cấp nước, vật liệu xây dựng, điện tử, vật tư phân bón, hàng tạp hoá... giá trị đạt 13 tỷ 623 triệu đồng tăng gấp hai lần so với năm 2000.
Quốc phòng, an ninh đạt tiên tiến, xuất sắc, văn hoá xã hội phát triển tốt. Hệ thống chính trị đạt trong sạch vững mạnh.
          Trong nhiệm kỳ, Đảng uỷ đã chỉ đạo kiện toàn 3 HTX, chuyển đổi mô hình quản lý HTX nông nghiệp - dịch vụ điện năng theo luật HTX và điều lệ. Qua các kỳ đại hội, HTX đã công khai dân chủ bàn bạc, mỗi vấn đề hoạt động của HTX do đại hội đại biểu xã viên quyết định. Hoạt động của 3 HTX có nhiều tiến bộ trong các khâu: Quản lý hoạch toán kinh tế HTX theo đơn giá của đại hội đại biểu xã viên đề ra. Làm tốt dịch vụ điện năng, dịch vụ nước, dịch vụ vật tư phân bón, giống, phòng trừ sâu bệnh. Phối hợp với trạm khuyến nông - khuyến ngư, tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật cho xã viên. Xây dựng cơ bản xong kênh mương, bê tông hoá đưa nước tưới tiêu cho 18/18 thôn. Chỉ đạo sản xuất cơ cấu mùa vụ chặt chẽ hơn, góp phần nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi và chất lượng hàng hoá cũng như góp phần nâng cao cải thiện đời sống nhân dân.
Tỷ lệ gia đình văn hoá đạt 80-85%. Hưởng thụ văn hoá và các điều kiện hoạt động văn hoá được nâng lên. Truyền thanh xã, bưu điện văn hoá xã tăng cường các loại sách, báo chí, tài liệu tuyên truyền đến tận chi bộ và thôn. Có 98 hộ có phương tiện nghe nhìn, 82% số hộ có điện thoại, 73% hộ có xe máy, 1,7% hộ có ô tô. Trên 80% hộ có dùng nước hợp vệ sinh, việc cưới, việc tang được thực hiện tiết kiệm theo nếp sống mới.
      Các chính sách xã hội được quan tâm kịp thời, được sự hộ trợ của trên đã xây dựng một nhà tình nghĩa, sửa lại 6 nhà trị giá 53 triệu đồng, tặng 56 sổ tiết kiệm trị giá 19,6 triệu đồng. Thăm hỏi tặng quà thương bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người có công 33 triệu. Xây dựng Đài tưởng niệm liệt sỹ 537 triệu, trong đó Cty Xuân Trường ủng hộ 300 triệu đồng, nhân dân đóng góp 237 triệu đồng. Quỹ vì người nghèo quyên góp được 69.881 đồng. Sủa chữa 16 nhà cho hộ nghèo, trợ cấp khó khăn và hộ trợ con giống 163 triệu đồng. Với những nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân tỷ lệ hộ nghèo còn 8,9%, giảm 3,8% so với năm 2005.
Thực hiện nghiêm túc việc đăng ký, khám tuyển, giao quân hàng năm. Năm 2005-2010 đăng ký độ tuổi nghĩa vụ quân sự có 496 thanh niên, giao quân 72 thanh niên đạt 100% chỉ tiêu.
      Chính sách hậu phương quân đội được triển khai kịp thời, lập hồ sơ hưởng chế độ cho lực lượng dân quân theo Quyết định số 290/CP của Chính phủ cho 241 người, chống Pháp 15 người, lập hồ sơ cho quân nhân chống Mỹ chưa được hưởng chế độ theo Quyết định 142/CP của Chính phủ.
      Công tác quốc phòng được liên tục đánh giá là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, năm 2009 được công nhận là đơn vị quyết thắng
An ninh - chính trị - trật tự an toàn xã hội có nhiều tiến bộ, đặc biệt từ khi có Nghị định 40/CP của Chính phủ và Pháp lệnh công an xã năm 2007 về thành lập lực lượng Công an xã, quy định chức năng và quyền hạn của Ban công an xã. Hiện nay Ban Công an xã có 23 đồng chí trong đó có 1 trưởng, 1 phó trưởng công an, 3 an ninh thường trực và 17 công an viên. Trong những năm qua Ban công an xã đã hoàn thành tốt nhiệm vụ giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của địa phương.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được chú trọng, trong nhiệm kỳ 2005-2010, Đảng bộ đã bố trí 62 lượt người dự các lớp đào tạo, trong đó 11 đồng chí theo học đại học, 9 đồng chí trung cấp chuyên môn, 11 đồng chí học trung cấp lý luận chính trị, 31 đồng chí học sơ cấp chính trị. Cử 85 cán bộ đi bồi dưỡng, kết nạp được 59 đảng viên. Việc phân loại cơ sở, đảng viên được làm chặt chẽ. Đảng bộ 6 năm liền đạt trong sạch vững mạnh.         
Hoạt động của HĐND, UBND có chuyển biến rõ nét, thực hiện đúng quy định của pháp luật, đổi mới nâng cao chất lượng các kỳ họp, phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, tăng cường công tác giám sát. Xây dựng thực hiện tốt các quy chế. Ban hành các nghị quyết sát thực tế. Sau các kỳ bầu cử HĐND, vai trò của thường trực và các vị HĐND được phát huy tốt.
Bộ máy chính quyền được chăm lo củng cố trẻ hoá, cơ bản đạt chuẩn hoá. Vai trò điều hành và tham mưu cho cấp uỷ có tiến bộ. Thường xuyên đổi mới phong cách làm việc gắn với cải cách hành chính. Duy trì chế độ làm việc, hội họp, giao ban hội ý, giải quyết công việc, thực thi pháp luật được tiến hành nghiêm túc, tạo bầu không khí dân chủ, kỷ cương, nội bộ đoàn kết thống nhất.
Mặt trận Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhất là sau khi có Nghị quyết Trung ương VII (khoá IX) về tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. MTTQ xã chăm lo củng cố tổ chức, mở rộng tập hợp phát triển 16 tổ chức thành viên, động viên, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất, trình độ đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ đặt ra trong các phong trào: “Toàn dân xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”. Phong trào giữ gìn an ninh trật tự, giảm bớt tai nạn giao thông, vệ sinh môi trường, xoá nhà dột nát, ngày vì người nghèo... chủ động phối hợp tham gia xây dựng chính quyền nhân dân ngày càng vững mạnh. Làm tốt công tác phản biện xã hội đối với Đảng và chính quyền nhân dân. Tham gia giám sát cán bộ, thông qua tổ chức hội nghị nhân dân góp ý, giám sát xây dựng công trình công cộng. Mặt trận Tổ quốc xã nhiều năm được huyện xếp loại hoàn thành suất sắc nhiệm vụ.
Đoàn Thanh niên Công sản Hồ Chí Minh có nhiều hoạt động phong phú thiết thực, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho tuổi trẻ. Nhiệm kỳ 2000-2005, tập hợp được 68,3%. Nhiệm kỳ 2005-2010 tập hợp được 76,6%, bao gồm 219 đoàn thanh niên sinh hoạt ở 21 chi đoàn, 8 chi hội liên hiệp thanh niên có 120 hội viên. Đẩy mạnh phong trào thanh niên xung kích và 5 đồng hành. Giáo dục cảm hoá đoàn viên, thanh niên, thiếu niên lầm lỗi chậm tiến. Chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ, giới thiệu đoàn viên ưu tú kết nạp vào Đảng. Ngoài việc chăm lo củng cố tổ chức. Tổ chức đoàn còn giúp nhau xoá đói giảm nghèo.
Hội Liên hiệp Phụ nữ đã làm tốt chức năng là tổ chức chính trị đại diện giới nữ trong việc tuyên truyền, vận động hội viên thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ. Sinh hoạt ở 18 chi hội với 1446 hội viên (năm 2011), tỷ lệ tập hợp 89%. Hội đã tổ chức phát động các phong trào thi đua và thực hiện 6 nhiệm vụ trọng tâm của Hội. Đặc biệt là nhiệm vụ hộ trợ phụ nữ phát triển kinh tế. Đã đứng ra thế chấp vay vốn ở ngân hàng chính sách xã hội huyện gần 5 tỷ đồng cho gần 300 hội viên vay. Ngoài ra, còn làm tốt công tác nhân đạo từ thiện, đền ơn đáp nghĩa.
Hội Nông dân đã tập hợp được 1.093 hội viên (năm 2010), đạt tỷ lệ 76,2%, bố trí sinh hoạt ở 18 chi hội. Hội chủ động tạo điều kiện về vốn và kiến thức khoa học giúp hội viên phát triển kinh tế, thường xuyên phối kết hợp với Trạm Khuyến nông - Khuyến ngư huyện, Trường Trung cấp kỷ thuật Bắc Nghệ An. Cùng với Ban khuyến nông xã và các Hợp tác xã, Hội đã tổ chức các lớp tập huấn khuyến nông, hướng dẫn và chuyển giao áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất cho nông dân, bước đầu hội viên đã áp dụng có hiệu quả; Hội đứng ra tín chấp cho hội viên vay vốn ngân hàng phát triển kinh tế gia đình và phối hợp với Hội Nông dân huyện làm dịch vụ cho hội viên. Hội được ủy ban nhân dân phân công phụ trách 04 tổ vay vốn ngân hàng chính sách với số tiền hơn 2 tỷ đồng cho 126 hộ vay. 18/18 chi hội đều có quỹ hoạt động. Hàng năm, tham gia đóng góp các quỹ: bão lụt, học sinh có hoàn cảnh nghèo vượt khó, hỗ trợ hội viên nghèo, tu sửa nhà cửa, mua giống cây, con...
Hội Cựu chiến binh phát triển được 386 hội viên, đạt tỷ lệ 95,5%, được bố trí sinh hoạt ở 18 chi hội. Hội đã phát huy bản chất bộ đội Cụ Hồ, luôn đi đầu trong các phong trào, nhiệm vụ chính trị, trọng tâm của Hội và địa phương, nhất là trong công tác bảo vệ an ninh thôn xóm, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ quốc phòng. Hội đã tổ chức các câu lạc bộ "Cựu quân nhân" và phối hợp chặt chẽ với Ban công an, Đoàn thanh niên làm tốt công tác bảo vệ an ninh thôn xóm, phòng chống tệ nạn xã hội và giáo dục người lầm lỗi. Hội đứng ra làm tín chấp vay vốn ngân hàng chính sách xã hội và các nguồn khác, gần 5 tỷ góp phần phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo. Hội phối hợp với Đoàn thanh niên, nhà trường tổ chức các buổi nói chuyện truyền thống về bộ đội Cụ Hồ cho thanh, thiếu niên nhân ngày 22/12.
Hội người cao tuổi với các phong trào: "thể dục dưỡng sinh", "Người cao tuổi mẫu mực", "sống vui - sống khoẻ - sống có ích" được triển khai rộng khắp và thu hút đông đảo hội viên tham gia. Câu lạc bộ thơ, ca hoạt động đều đặn và ngày càng chất lượng hơn. Đây thực sự là lực lượng đóng vai trò đáng kể trong quá trình phát triển của địa phương. Những năm qua, Hội thực sự trở thành một sân chơi, nơi tập hợp đông đảo lực lượng người cao tuổi trên địa bàn. Xác định người cao tuổi là lực lượng quan trọng, hội đủ uy tín và kinh nghiệm trong việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Các phong trào của Hội thường xuyên được duy trì đảm bảo tính gương mẫu và hiệu quả. Hội tích cực vận động con cháu thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
 
Qua hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội khóa XX trong bối cảnh kinh tế có nhiều biến động; diễn biến thời tiết phức tạp, thất thường đã ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, đời sống của một bộ phận nhân dân còn gặp khó khăn nhưng được sự quan tâm của Huyện uỷ - HĐND - UBND và các ban, ngành cấp huyện, sự chỉ đạo kịp thời của Ban Chấp hành Đảng bộ, sự phối hợp đồng bộ của  UBND xã với MTTQ, các đoàn thể từ xã đến thôn, Mai Hùng đã giành được nhiều thành tựu nhất định.
Năm 2012, tốc độ tăng trưởng kinh tế 12,6%; bình quân thu nhập đầu người đạt 15 triệu/người/năm. Tổng giá trị sản xuất đạt hơn 78 tỷ đồng, bằng 103,1% KH, tăng 12,6% so với cùng kỳ. Trong đó, nông - lâm - ngư nghiệp, giá trị sản xuất đạt hơn 37 tỷ đồng, đạt 99,7% KH; tiểu thủ, công nghiệp và xây dựng đạt gần 23 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 29%; dịch vụ thương mại hơn 18 tỷ đồng, chiếm 23,4%.
Đã triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; tổ chức tuyên truyền vận động nhân dânchung tay xây dựng nông thôn mới có hiệu quả trên các phương tiện thông tin đại chúng, vận động nhân dân hiến đất, hiến công trình, góp công, góp của để mở rộng đường giao thông.
Văn hoá xã hội tiếp tục đạt được nhiều thành tựu tích cực. Thực hiện có hiệu quả phong trào đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư. Có 13/18 thôn có nhà văn hoá, tỷ lệ gia đình văn hoá đạt 83,1%. Sự nghiệp giáo dục từng bước được nâng lên cả về số lượng, chất lượng. Hoàn thành tốt kế hoạch năm học 2011-2012; tỷ lệ học sinh khá giỏi cao, chiếm 29,3%, tăng 11,8% so với năm trước. Số em đậu đại học là 4 4 em, cao đăng 27 em; tỷ lệ huy động trẻ em vào lớp 1 đạt 100%. Đã làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, không để dịch bệnh xẩy ra trên địa bàn. Triển khai tốt các chương trình truyền thông tư vấn về sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình.
Quốc phòng - an ninh; trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững. Hoàn thành chương trình huấn luyện quân sự, kế hoạch diễn tập khu vực phòng thủ; đấu tranh ngăn chặn kịp thời có hiệu quả các vụ việc xảy ra trên địa bàn.
Công tác xây dựng Đảng được quan tâm ;tổ chức thực hiện nghiêm túc việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” theo kế hoạch, hướng dẫn của cấp trên. Thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra, giám sát.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã làmtốt công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, hội viên, đoàn viên và nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; phối hợp với HĐND, UBND tôt chức tốt các cuộc tiếp xúc cử tri.
Thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, các kế hoạch, hướng dẫn của cấp trên, Đảng bộ đã kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn các ban, ngành đoàn thể, các chi bộ, tổ chức cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên đăng ký nội dung làm theo sát thực với tình hình nhiệm vụ chính trị được giao. Sau hơn một năm triển khai thực hiện Chỉ thị 03, nhận thức của cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực; tính tự giác trong thực hiện nhiệm vụ chính trị được nâng lên; góp phần quan trọng chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên; góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương. Đã xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Nhìn lại hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng bộ và nhân dân xã Mai Hùng đã đạt được bước tiến nhanh và đồng đều trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Kết quả đó là sự nỗ lực của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Mai Hùng trong việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết, tận dụng thời cơ, khai thác đúng tiềm năng, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ đề ra. Tiếp tục viết tiếp những trang sử vàng cho quê hương trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.

LỜI KẾT
Mai Hùng có lịch sử lâu đời, trải qua hàng ngàn năm, nơi đây đã có con người sinh sống. Từ bàn tay khối óc, sức lực và trí tuệ, cư dân nơi đây đã biến những bãi hoang, đầm lầy, rừng rậm... thành một vùng đất trù phú. Những nỗ lực của con người trong khai thác, chế ngự tự nhiên, xây dựng đời sống, đấu tranh chống các kẻ thù xâm lược... đã tạo nên truyền thống lịch sử - văn hoá của quê hương. Những truyền thống quý báu đó đã được nhân dân gìn giữ và phát huy, vừa mang nét riêng của vùng quê Quỳnh Lưu, mảnh đất “địa linh nhân kiệt”, vừa chứa đựng những yếu tố chung trong nền văn hoá - văn minh dân tộc.
Trong quá trình xây dựng, phấn đấu và trưởng thành, trải qua các triều đại phong kiến trong lịch sử, qua các phong trào đấu tranh yêu nước chống giặc ngoại xâm, nhất là phong trào cách mạng trong 30 năm đầu thế kỉ XX, nhân dân Mai Hùng đã tích cực hưởng ứng, đóng góp công sức của mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều người con thân yêu của quê hương Mai Hùng đã đi theo tiếng gọi của Đảng, đóng góp vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Cách mạng tháng Tám thành công, 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, 21 năm kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Mai Hùng là điểm đánh phá ác liệt của kẻ địch. Nhưng dưới sự lãnh đạo của chi bộ, sau đó là Đảng bộ, nhân dân các làng xã Mai Hùng đã đứng lên đấu tranh, đóng góp công sức của mình cho hai cuộc kháng chiến với tinh thần “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”.
Kết quả qua các cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, Mai Hùng đã cung cấp hàng ngàn tấn lư­ơng thực, thực phẩm, động viên 684 đồng chí tham gia quân đội, 54 người vào thanh niên xung phong, 168 người đi dân công hoả tuyến (chỉ tính số người đã được công nhận). Trên các chiến trường, trong hàng chục năm chiến đấu, những người con quê hương đã vượt qua bao gian khổ hy sinh, lập nhiều thành tích, 78 đồng chí đã hiến dâng cả đời mình cho Tổ quốc và quê hương, 89 đồng chí là thương binh các loại. Với sự đóng góp đó đã được nhà nước phong tặng 1 bà mẹ Việt Nam anh hùng, 2 cán bộ tiền khởi nghĩa, 622 huân, huy chương các loại, 246 gia đình có công với nước.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng bộ sớm nắm bắt chủ trương đường lối của Trung ương, tỉnh, huyện, quán triệt cho đảng viên và quần chúng nhân dân. Những nghị quyết chủ trương đó được vận dụng vào hoàn cảnh thực tế của địa phương, làm chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, áp dụng khoa học công nghệ mới vào địa phương. Nhờ vậy đã đạt được nhiều kết quả đáng tự hào trên các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo được an ninh - quốc phòng, tạo điều kiện phát huy hết mọi tiềm năng vốn có của địa phương.
Những thay đổi đó có được là nhờ sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, sự chỉ đạo điều hành của chính quyền, hoạt động năng động hiệu quả của các tổ chức kinh tế, vai trò phối hợp tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, là công sức của Đảng bộ, chính quyền và toàn thể nhân dân Mai Hùng.
Thắng lợi đó còn bắt nguồn từ những truyền thống quý báu của quê hương, những đảng viên cộng sản Mai Hùng mang đậm bản sắc quê hương, tích cực, gương mẫu, sáng tạo, tự lực tự cường, chung vai cùng với nhân dân gánh vác sự nghiệp cách mạng. Trải qua thực tiễn lãnh đạo những đảng viên nơi đây đã bám chặt vào dân, phát huy được sức mạnh quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và nhà nước giao.
Ngày nay đội ngũ đảng viên của Đảng bộ được bổ sung từ nhiều nguồn: từ quân đội về, từ cán bộ nghỉ hưu, nhưng số đông xuất thân từ nông dân, nông nghiệp nên một lòng gắn bó với nhân dân, quyết tâm lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng và đưa lại quyền lợi cho nhân dân. Hiện tại, Đảng bộ có đội ngũ đảng viên khá đông đảo, có trình độ văn hoá khá đồng đều, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, được học tập, đào tạo chu đáo. Hầu hết được trưởng thành trong thực tế, trong phong trào cách mạng của Đảng. Trong cơ chế thị trường, nhưng phần lớn cán bộ, đảng viên vẫn giữ được sự tín nhiệm của nhân dân, liêm khiết, trung thực, quyết đoán, dám đứng mũi chịu sào trong các cương vị công tác, luôn luôn lắng nghe ý kiến đóng góp phê bình của nhân dân. Đây là nhân tố quan trọng để trong chặng đường tiếp theo, Mai Hùng tiếp tục giành được những thắng lợi mới.
Điều khẳng định qua thực tiễn 80 năm qua, chỉ có đi theo Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Mai Hùng mới đạt được những kết quả to lớn, thoát khỏi cảnh đói ngheo, đổi mới, xây dựng quê hương ngày càng ấm no hạnh phúc. Bộ mặt nông thôn ngày càng thay da đổi thịt. Điện  - đường - trường - trạm - thông tin - môi trường ngày càng được hoàn thiện và nâng cấp. Nơi ở, sinh hoạt của nhân dân ngày càng được cải thiện, phương tiện đi lại phát triển, đáp ứng nhu cầu đi lại và phát triển kinh tế của xã nhà.
Chặng đường đi tới mặc dù còn nhiều gian nan, vất vả trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, nhất là công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn mà trước hết là xây dựng nông thôn mới. Nhưng những gì mà Đảng bộ và nhân dân mai Hùng đã đạt được trong thế kỷ XX, đặc biệt là trong những năm đầu của thế kỷ XXI, là hành trang để Đảng bộ và nhân dân nơi đây bước tiếp vào chặng đường mới, viết tiếp những trang sử mới, với ý chí và niềm tin tất thắng, Đảng bộ và nhân dân Mai Hùng nguyện đoàn kết đồng lòng phát huy những thành tích đã đạt được; khắc phục những khuyết điểm hạn chế, vượt qua khó khăn, ra sức xây dựng quê hương vươn tới những đỉnh cao mới: vững về kinh tế, mạnh về an ninh - quốc phòng và văn minh trong cuộc sống, sớm hoàn thành mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
 
PHỤ LỤC
 
          Cán bộ xã Mai Hùng giữ các chức vụ lãnh đạo Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể xã: Vinh Hoa, Quỳnh Mai, Văn Hiến, Văn Phương, Quỳnh Phương (trước khi thành lập xã Mai Hùng).
 
Ban Chấp hành Chi bộ đảng các thời kỳ
 
          1946-1948: Ngô Văn Khoan - Bí thư Chi bộ đầu tiên xã Văn Hiến
          1946-1948: Ngô Văn Phiêng - Phó Bí thư Chi bộ đầu tiên xã Văn Hiến.
          1946-1948: Ngô Trí Tố - Chi uỷ viên Chi bộ đầu tiên xã Văn Hiến.
          1950-1951: Nguyễn An In - Chi uỷ viên xã Văn Phương
          1951-1952: Nguyễn An In - Phó Bí thư xã Văn Phương
          1952-1954: Nguyễn An In - Bí thư Chi bộ xã Văn Phương
          1948-1949: Trần Huy Thạc - Chi uỷ viên xã Văn Phương
          1951-1954: Đậu Đức Thâu - Chi uỷ viên xã Văn Phương
          1955-1956: Bùi Văn Mởn - Chi ủy viên Phó, Chủ tịch xã Quỳnh Phương
          1956-1957: Ngô Trí Quyết, Phó Bí thư, Chủ tịch xã Quỳnh Phương
 
Uỷ ban kháng chiến Hành chính
          1946-1947: Ngô Văn Phiêng - Chủ tịch xã Văn Hiến
          1946-1947: Đậu Viết Cừ - Phó Chủ tịch xã Văn Hiến
          1947-1948: Bùi Cởn - Chủ tịch xã Văn Hiến
          1947-1948: Văn Đức Tường - Phó Chủ tịch xã Văn Hiến,
                             Văn Đức Viêm - Chủ tịch xã Quỳnh Mai
          1948-1951: Nguyễn Xuân Thếp - Ủy viên UB Quỳnh Mai
          1948-1952: Bùi Văn Thuy - Phó Chủ tịch xã Văn Phương
          1951-1954: Văn Đức Tường - Ủy viên UB kháng chiến hành chính xã Văn Phương
          1954, Ngô Trí Duyện - Uỷ viên UB kháng chiến hành chính xã Quỳnh Phương
          1955-1956: Bùi Văn Mởn - Chi ñy viªn, Phó Chủ tịch UB kháng chiến hành chính xã Quỳnh Phương
          1956-1957: Ngô Trí Quyết - Chủ tịch UB kháng chiến hành chính xã Quỳnh Phương
 
Mặt trận Việt Minh và Liên Việt
          1945-1947: ông Ngô Trí Hai -  Chñ nhiệm Việt Minh xã V¨n HiÕn
          1946-1947: ông Ngô Trí Tố - Phó Chủ nhiệm Việt Minh xã V¨n HiÕn
          1951-1953: ông Trần Huy Thạc - Chủ tịch Liên Việt xã Văn Phương
          1954-1956: ông Bùi Văn Hồng - Chủ tịch Liên Việt xã Quỳnh Phương
 
Đoàn Thanh niên
          1946-1947: Trần Đức Tộ - Trưởng Đoàn Thanh niên cứu quốc xã Văn Hiến
          1947-1948: Bùi Văn Hồng - Trưởng Đoàn Thanh niên cứu quốc xã Văn Hiến.
          1946-1947: Văn Đức Nhàn - cán sự Đoàn Thanh niên cứu quốc xã Quỳnh Mai.
          1949-1953: Nguyễn Xuân Điền - Bí thư Đoàn thanh niên cứu quốc xã Quỳnh Mai.
          1950-1951: Ngô Trí Duyện - Bí thư Đoàn Thanh niên cứu quốc xã Văn Phương.
          1951-1953: Ngô Trí Ba -  Bí thư Đoàn Thanh niên cứu quốc xã Văn Phương
          1954-1956: Bùi Văn Hồng - Bí thư Đoàn Thanh niên cứu quốc xã Quỳnh Phương.
          1954-1956:  Bùi Văn Khính -  UVCH Đoàn xã Quỳnh Phương.
 
Hội Phụ nữ
          1946-1948: Ngô Thị Uông, Hội Trưởng Phụ nữ Văn Hiến
          1946-1948: Ngô Thị Cản, Hội phó Phụ nữ Văn Hiến
          1946-1948: Phạm Thị Thoàn, UVCH Phụ nữ Văn Hiến
1        1946-1948: Trần Thị Tròn, UVCH Phụ nữ Văn Hiến
 
Hội Nông dân
          1946-1947: Trần Huy Thạc, trưởng Hội Nông dân cứu quốc xã Văn Hiến.
          1946-1947: Nguyễn An Hờn, UVCH Hội Nông dân cứu quốc xã Văn Hiến.
          1948-1950: Văn Đức Tường, trưởng Hội Nông dân cứu quốc xã Văn Phương.
          1950-1951: Nguyễn An In, Trưởng Hội Nông dân xã Văn Phương
          1948-1949: Văn Đức Trương, UVCH xã Quỳnh Mai
          1954-1955: Trần Đức Mượt, Trưởng Hội Nông dân cứu quốc xã Quỳnh Phương.
          1955-1956, Ngô Văn Viềng, Trưởng Hội Hông dân cứu quốc xã Quỳnh Phương.
 
QUỲNH HỢP SỰ THÀNH LẬP CHI BỘ, ĐẢNG BỘ
 
Tháng 4 năm 1954, xã Quỳnh Hợp được thành lập bao gồm: Yên Lộc, Yên Trạch được chia tách từ xã Quỳnh Mai về, chòm Trung Kiên được chia tách từ xã Văn Phương.
Số đảng viên 2 chi bộ chuyển về thành lập Chi bộ Quỳnh Hợp. Tổng số 48 đảng viên, trong đó Chi bộ Văn Phương chuyển về 29 đồng chí, Chi bộ Quỳnh Mai chuyển về 19 đồng chí.
Đảng viên xã Vinh Hoa - Quỳnh Mai kết nạp thời kỳ 1946 - 1950
Yên Lộc - Yên Trạch
          1. Văn Đức Huế              8. Văn Đức Côn              14. Nguyễn Văn Tình
          2. Văn Đức Khuông        9. Văn Đức Nhận            15. Quách Hữu Tịch
          3. Văn Đức Viêm            10.Văn Đức Cho             16. Văn Đức Trương
          4. Bùi Văn Trờng            11. Lê Đức Thâm            17. Nguyễn Xuân Khang
          5. Nguyễn Xuân Phôn     12. Văn Đức Hịnh           18. Văn Thị Hảo
          6. Lê Hữu Đại                  13. Lê Đức Tráng            19. Nguyễn Xuân Phùng
          7. Văn Đức Thu
Tổ đảng Trung Kiên
          1. Văn Đức Tường          11. Đinh Văn Pho            21. Đinh Văn Thám
          2. Đậu Thâu                     12. Đậu Đức Thuý           22. Đinh Thị Hảo
          3. Đậu Viết Cừ                13. Vũ Xuân Phương      23. Trần Thị Dơn
          4. Đậu Đức Khánh           14. Lê Trọng Chu                      24. Văn Đức Lơm
          5. Văn Đức Thìn              15. Văn Đức Đa              25. Lê Thị Cớn
          6. Đậu Đức Tẩn               16. Nguyễn Thị Lượng    26. Nguyễn Thị Kiệp
          7. Đậu Đức Xấn              17. Lê Thị Út                   27. Văn Đức Tình
          8. Đậu Đức Ngơn            18. Đậu Huy Vậy            28. Lê Đình Bàng
          9. Đinh Văn Chi              19. Trần Văn Lan           
          10. Đinh Văn Áng                     20. Trần Văn Tân 
         
                                                 
BAN CHẤP HÀNH CHI BỘ, ĐẢNG BỘ
XÃ QUỲNH HỢP TỪ NĂM 1959-1969
 
          Đại hội Chi bộ lần thứ Nhất xã Quỳnh Hợp
          Khóa I, nhiệm kỳ 1954-1955
 
          1. Vũ  Xuân  Phương, Bí thư Chi bộ
          2. Nguyễn Xuân Phôn, Chủ tịch UBHC
          3. Đậu Đức Khánh, Tổ chức
          4. Lê Đức Tráng, Phó Chủ tịch UBHC
          5. Đinh Văn Pho, Ủy viên
          6. Bùi Tề, Ủy viên
          7. Nguyễn Xuân Cúc, Ủy viên
          8. Văn Đức Khuông, Ủy viên
          9. Lê Công Bàng, Bí thư Đoàn
 
          Đại hội Chi bộ lần thứ II, nhiệm kỳ 1955-1956
 
     1. Văn Đức Lựu, Bí thư Chi bộ
     2. Nguyễn Xuân Phôn, Chủ tịch UBHC
     3. Văn Đức Tường, Tổ chức
     4. Nguyễn Xuân Điền, Phó Chủ tịch UBHC
     5. Trần Văn Tân, Xã đội trưởng
     6. Lê Thị Phòng, Ủy viên
     7. Đinh Văn Pho, Ủy viên
     8. Nguyễn Xuân Thếp, Ủy viên
     9. Đậu Đức Tẩn
 
          Đại hội Chi bộ lần thứ III, nhiệm kỳ 1957-1958
 
1. Lê Đức Tráng, Bí thư Chi bộ
2. Vũ Xuân Phương, Chủ tịch UBHC
3. Văn Đức Tường, Tổ chức
4. Lê Công Bàng, Phó Chủ tịch UBHC
5. Nguyễn Xuân Kỷ, Bí thư Nông hội
     6.  Lê Thị Phòng, Ủy viên
     7. Nguyễn Ngọc Thiện, Ủy viên
     8. Nguyễn Xuân Thếp, Ủy viên
 
      Đại hội Chi bộ lần thứ IV, nhiệm kỳ 1959-1960
 
1. Đậu Đức Thúy, Bí thư Chi bộ
2. Nguyễn Xuân Kỷ, Chủ tịch UBHC
3. Lê Đức Tráng, Tổ chức
4. Văn Đức Tường, Phó Chủ tịch UBHC
5. Văn Đức Trương
6. Lê Thị Phòng, Ủy viên
7. Văn Đức Nhàn, Ủy viên
 
          Đại hội Đảng bộ lần thứ V,  nhiệm kỳ 1961-1963
 
1. Đậu Đức Thúy, Bí thư Đảng ủy
         2. Lê Đức Hưu, Chủ tịch UBHC (từ tháng 7/1960- 1/1961)
         3. Văn Đức Đa, Chủ tịch UBHC(từ tháng 1/1961-1963)
         4. Văn Đức Trương, Tổ chức
         5. Nguyễn Xuân Kỷ, Phó Chủ tịch UBHC
6. Lê Thị Phòng, Ủy viên
7. Văn Đức Nhàn, Ủy viên
 
          Đại hội Đảng bộ lần thứ VI, nhiệm kỳ 1963-1965
 
          1. Lê Công Hảo, Bí thư Đảng ủy, một thời gian sau đồng chí Hảo đi Nông trang Quỳnh Thắng, đồng chí Văn Đức Trương lên thay.
          2. Văn Đức Đa, Chủ tịch UBHC
          3. Văn Đức Tường, Tổ chức
          4. Bùi Quang Trọng, Phó Chủ tịch UBHC
          5. Nguyễn Xuân Kỷ,
          6. Nguyễn Văn Hạp, Bí thư Đoàn
          7. Văn Đức Thìn, Chủ nhiệm HTX
          8. Lê Thị Phòng, Ủy viên
          9. Nguyễn Xuân Thếp, Ủy viên Văn phòng
 
 
 
Khóa này, Đại hội bầu đồng chí Lê Công Hảo Bí thư sau đó đồng chí Hảo đi nông trang Quỳnh Thắng đồng chí Trương thay.
 
Đại hội Đảng bộ lần thứ VII, nhiệm kỳ 1965-1967
 
1. Vũ Xuân Phương, Bí thư Đảng ủy
2. Bùi Quang Trọng, Chủ tịch UBHC
3. Văn Đức Trương, Tổ chức
4. Phạm Đình Quế, Phó Chủ tịch UBHC
5. Nguyễn Xuân Thếp, Xã đội trưởng
6. Nguyễn Văn Hạp, Bí thư Đoàn
7. Đậu Đức Tẩn, Chủ nhiệm HTX Toàn Thắng
8. Nguyễn Xuân Kỷ, Chủ nhiệm HTX Tiền Phong
9. Lê Công Đoàn, Ủy viên
10. Đậu Thâu
 
Đại hội Đảng bộ lần thứ VIII, nhiệm kỳ 1967-1969
 
1. Phạm Đình Quế, Bí thư Đảng ủy
2. Bùi Quang Trọng, Chủ tịch UBHC
3. Đậu Thị Phưng, Phó Chủ tịch UBHC
4. Nguyễn Văn Hạp, Bí thư Đoàn
5. Lê Công Đoàn, Xã đội trưởng
6. Văn Đức Liễn, Chủ nhiệm HTX
7. Nguyễn Xuân Kỷ, Chủ nhiệm HTX Tín Dụng
8. Lê Công Dơu, Ủy viên
 
Bí thư Đoàn thanh niên xã Quỳnh Hợp qua các thời kỳ:
 
          1953-1955, đồng chí: Nguyễn Văn Điền 
          1955-1956, đồngchí: Lê Công Đoàn           
          1957-1959, đồng chí: Lê Công Hảo          
          1959-1963, đồng chí: Bùi Quang Trọng
          1964-1965, đồng chí: Đoàn Văn Ước
          1966-1968, đồng chí: Nguyễn Văn Hạp
          1968-1969, đồng chí: Đoàn Văn Ước
 
Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Quỳnh Hợp qua các thời kỳ:
 
          1954-1964: bà Lê Thị Phòng    
          1964-1965: bà Văn Thị Thịnh            
          1965-1966: bà Văn Thị Liên
          1966-1967: bà Lê Thị Phòng
          1967-1968: bà Đậu Thị Phưng
          1968-1969: bà Đinh Thị Thảo
                   
         
Hợp tác xã nông nghiệp
          Năm 1948 - 1954, chòm Trung Kiên, xã Văn Phương đã thành lập tập đoàn sản xuất nông nghiệp hình thức như HTX cấp cao là tập trung ruộng đất, trâu bò, công cụ sản xuất chung, thu hoạch phân phối sản phẩm, ông Văn Đức Lơm - Chủ nhiệm tập đoàn.
          Năm 1959-1961, chòm Trung Kiên thuộc xã Quỳnh Hợp thành lập 4 HTX xã nhỏ.
          1. HTX Quyết Tiến: ông  Đậu Viết Huy, Chủ nhiệm
          2. HTX Yên Thịnh: ông Văn Đức Thìn, Chủ nhiệm
          3. HTX Yên Trung: ông Đinh Chi, Chủ nhiệm
          4. HTX Yên Đông:  ông Đậu Tẩn, Chủ nhiệm
          Năm 1961-1969, 4 HTX nhập lại thành HTX Toàn Thắng
 
N¨m Chủ nhiệm Phó Chủ nhiệm
1961-1963 Văn Đức Tường Văn Đức Thìn
1963-1965 Văn Đức Thìn Đậu Khánh
1965-1967 Đậu Tẩn Đậu Thâu
1967-1968 Hồ Nguyệt Đinh Thị Thảo,  Đậu Viết Dựa
1968-1969 Đậu Thâu Đinh Thị Thảo, Đậu Viết Dựa
 
Năm 1959, Yên Lộc - Yên Trạch thành lập HTX Tiền Phong, Ban quản lý qua các thời kỳ
N¨m Chủ nhiệm Phó Chủ nhiệm
1959-1960 Nguyễn Xuân Khang  
1960-1961 Văn Đức Nhàn Nguyễn Xuân Khang
1961-1962 Bùi Chi  
1962-1964 Văn Thị Liên Văn Đức liễn
1964-1966 Lê Hữu Viễn Bùi Văn Viễn
 1966-1968 Nguyễn Xuân Kỷ Nguyễn Văn Tục
1968-1969 Văn Đức Liễn Lê Thị Phòng
 
QUỲNH KIM, SỰ THÀNH LẬP ĐẢNG BỘ
Tháng 5 năm 1957, xã Quỳnh Kim được thành lập, chia tách từ xã Quỳnh Phương về gồm các xóm An Mỹ, Thịnh Mỹ, Trung Thành, Thắng Mỹ (làng Kim Lung), Mỹ Xuyên (làng Ngọc Huy).
          Từ đó Đảng bộ cũng được phân chia thành 5 chi bộ, có 66 đảng viên từ Chi bộ Quỳnh Phương về thành lập Chi bộ Quỳnh Kim.
 
Đảng viên thuộc xã Văn Hiến - Văn Phương                                                         kết nạp từ 1946 - 1950
 
Tổ đảng An Mỹ                            Tổ đảng Thịnh Mỹ
1.  Ngô Văn Khoan                     1. Nguyễn An  In
2.  Ngô Văn Phiêng                2. Nguyễn An Hớn
3.  Ngô Văn Tân                          3. Nguyễn An Doãn
4.  Ngô Xuân Viên                      4. Ngô Trí Thảnh
          5. Trần Đức Luyên                      5. Nguyễn An Ngự
          6. Trần Đức Mớt                          6. Nguyễn An Vượng
          7. Bùi Văn Hán                            7. Bùi Văn Tuy
          8. Ngô Trí Rằng                          8. Bùi Văn Khính
          9. Trần Đức Tộ                            9. Trần Bá Tuồn
          10. Ngô Thị Cản                        10. Bùi Văn Khơng
          11. Ngô Văn Thự                      11. Trần Bá Thái
          12. Ngô Văn phong                   12. Nguyễn An Phợng
13. Ngô Thị Thưới                    13. Nguyễn An Nghìn
          14. Bùi Văn Mởn
          15. Bùi Văn Thôy
  
          Tổ đảng Trung Thành                                            Tổ đảng Thắng Mỹ
          1. Ngô Trí Hai                 8. Ngô Trí Huân                         1. Ngô Thị Uông
          2. Ngô Trí Tố                   9. Trần Đức Chưu                     2. Trần Đức Mượt
          3. Ngô Trí Duyện            10. Nguyễn Thanh Lịch                        3. Ngô Trí Quyết
          4. Nguyễn Đức Tô           11. Hồ Sỹ Thiếp                         4. Trần Đức Cợt
          5. Nguyễn Đức Ngan       12. Ngô Trí Ba                     5. Trần Đức Chuynh
          6. Nguyễn Đức Ngôn       13. Trần Huy Thạc                   6. Bùi Văn Hồng
          7. Ngô Trí Khuấn            14. Ngô Văn Viêng         7. Trần Đức Hoạch
         
           Tổ đảng Mỹ Xuyên
          1. Nguyễn Ngọc Chung                       9. Nguyễn Thị Soa
          2. Lê Đức Lam                                    10. Nguyễn Đình Phương
          3. Nguyễn Đình Đoán                         11. Nguyễn Thị Thửu
          4. Nguyễn Đình Phôn                          12. Nguyễn Đức Nhị
          5. Nguyễn Văn Nghị                           13. Nguyễn Đức Hà
          6. Nguyễn Thị Khánh                          14. Lê Đức Vịnh
          7. Nguyễn Đức Cận                             15. Đậu Thị Khiêm
          8. Nguyễn Đình Nghinh                      16. Hoàng Đức Vượt
 
BAN CHẤP HÀNH CHI BỘ, ĐẢNG BỘ
XÃ QUỲNH KIM TỪ NĂM 1957-1969
 
Trong tháng 5 năm 1957, Đại hội lần thứ nhất xã Quỳnh Kim, bầu Ban Chấp hành Chi bộ.
1. Trần Bá Tuồn, Bí thư Chi bộ
2. Nguyễn Văn Nhuận, Chủ tịch UBHC
3. Nguyễn Thanh Lịch, Tổ chức
4. Nguyễn Ngọc Dớm, Phó Chủ tịch UBHC
5. Ngô Thị Trung, Xã đội trưởng
6. Bùi Văn Hán, Ủy viên
7. Lê Đăng Gon, Ủy viên
 
Đại hội lần thứ II, nhiệm kỳ 1957-1958
 
1. Ngô Văn Khoan, Bí thư Chi bộ
2. Ngô Trí Quyết, Chủ tịch UBHC
3. Nguyễn Thanh Lịch, Tổ chức
4. Trần Bá Thái, Phó Chủ tịch UBHC
5. Trần Đức Mớt, Xã đội trưởng
6. Nguyễn Đức Tô, Ủy viên
7. Bùi Văn Hán, Ủy viên
 
          Đại hội lần thứ III, nhiệm kỳ 1958-1960
 
1. Trần Bá Tạo, Bí thư Chi bộ
2. Ngô Trí Quyết, Chủ tịch UBHC
3. Nguyễn Xuân Viên, Tổ chức
4. Nguyễn Văn Doãn, Phó Chủ tịch UBHC
5. Ngô Văn Viêng, Chủ tịch Hội Nông dân
6. Ngô Trí Hai
7. Nguyễn Đức Tô
8. Ngô Văn Thương, Ủy viên
9. Nguyễn Đình Nhích, Ủy viên
 
          Đại hội lần thứ IV, nhiệm kỳ 1960-1962
 
1. Trần Bá Thái, Bí thư Chi Bộ
2. Nguyễn Đình Đoán, Chủ tịch UBHC
3. Nguyễn An Doãn, Thường vụ, Phó Chủ tịch UBHC
4. Ngô Trí Duyên
5. Ngô Trí Quyết
6. Ngô Thị Uông, Hội trưởng Hội Phụ nữ
7. Ngô Trí Hai
8. Nguyễn Đức Tô, Ủy viên
 
          Đại hội lần thứ V, nhiệm kỳ 1962-1965
 
1. Trần Bá Thái, Bí thư Đảng ủy
2. Nguyễn An Doãn, Chủ tịch UBHC
3. Nguyễn Đình Đoán, Thường vụ, tổ chức
4. Ngô Trí Khuôn, Phó Chủ tịch UBHC
5. Ngô Trí Quyết, Chủ nhiệm HTX
6. Bùi Khính, Chủ nhiệm HTX
7. Nguyễn Đình Niên, Bí thư Đoàn
8. Bùi Văn Hồng, Ủy viên
9. Ngô Trí Cưu, Ủy viên
 
Đại hội lần thứ VI, nhiệm kỳ 1965-1967
 
1. Trần Bá Thái, Bí thư Đảng ủy
2. Nguyễn Đình Phương, Chủ tịch UBHC
3. Nguyễn Đình Đoán, Thường vụ, tổ chức
4. Nguyễn An Nghìn, Phó Chủ tịch UBHC
5. Đặng Đình Súy, Bí thư Đoàn
6. Ngô Trí Duyện
7. Lê Thị Chuôi, Ủy viên
8. Ngô Thị Tỉu, Ủy viên
9. Bùi Khính
 
 
Đại hội lần thứ VII, nhiệm kỳ 1967-1969
 
1. Nguyễn Đình Đoán Bí thư Đảng ủy
2. Nguyễn An Nghìn, Chủ tịch UBHC
3. Ngô Trí Hai, Tổ chức
3. Trần Bá Thái, Ủy viên Thường vụ
4. Nguyễn Thị Mỹ,  Phó Chủ tịch UBHC
6. Ngô Trí Duyện, Phó Chủ tịch - Trưởng công an
7. Lê Thị Chuôi, Ủy viên
8. Ngô Thị Tỉu, Ủy viên
 
 
Hợp tác xã nông nghiệp
 
          Năm 1948, chòm Tiến Bộ xã Văn Phương có tập đoàn sản xuất nông nghiệp có tên gọi tập đoàn nông nghiệp Liên Minh, ông Ngô Văn Phiêng - Chủ nhiệm
Năm 1959-1960, 4 xóm làng Kim Lung có 4 HTX nông nghiệp
Trung Thành: ông Nguyễn Đức Ngan, Chủ nhiệm. Thắng Mỹ: ông Ngô Trí Quyết, Chủ nhiệm. An Mỹ: ông  Bùi Mởn, Chủ nhiệm. Thịnh Mỹ: ông  Bùi Khính, Chủ nhiệm
          Năm 1960-1968: 4 HTX nhỏ hợp nhất thành HTX Kim Lung, Ban quản lý qua các thời kỳ
          Năm 1960-1962: ông Ngô Trí Quyết - Chủ nhiệm, Bùi Khính - Phó Chủ nhiệm, Bùi Văn Hồng - Phó Chủ nhiệm, Trần Bá Thái - kiểm soát, Trần Thạc - kế toán.
          Năm 1962-1963: ông Ngô Trí Ba, Chủ nhiệm; ông Bùi Văn Hồng, Phó Chủ nhiệm; ông Ngô Trí Duyện, Phó Chủ nhiệm;  ông Trần Huy Thạc, kiểm soát. Đồng chí Ba đi học đồng chí Duyện quyền Chủ nhiệm.
          Năm 1963-1964: ông Bùi Kính, Chủ nhiệm; ông Ngô Trí Duyện, Phó Chủ nhiệm;  ông Trần Huy Thạc, kế toán.
          Năm 1964-1965: ông Ngô Trí Hai, Chủ nhiệm, ông Bùi Khính, Phó Chủ nhiệm; ông Ngô Trí Duyện, Phó Chủ nhiệm; ông Trần Huy Thạc, kế toán
          Năm 1965-1966: ông Ngô Trí Duyện, Chủ nhiệm: bà Ngô Thị Phịa, Phó Chủ nhiệm; ông Ngô Trí Ba kiểm soát; ông Trần Thạc, kế toán.
          Năm 1966-1967: bà Ngô Thị Phịa, Chủ nhiệm; ông Ngô Trí Duyện, Phó Chủ nhiệm; ông Ngô Trí Ba, kiểm soát; ông Trần Thạc, kế toán.
          Năm 1967-1968: ông Ngô Trí Hai, Chủ nhiệm; ông Ngô Trí Duyện, Phó Chủ nhiệm; ông Ngô Trí Ba, kiểm soát.
 
Năm 1959 - 1966, xóm Mỹ Xuyên thành lập HTX Mỹ Ngọc
Ban quản lý qua các thời kỳ:
 
Năm Chủ Nhiệm Phó Chủ nhiệm
1959-1960 Nguyễn Đình Phương Nguyễn Đình Đoán
1960-1961 Lê Khắc Vịnh Nguyễn An Thuồn
1961-1962 Nguyễn Ngọc Chung Nguyễn An Thuồn
1962-1963 Nguyễn Đình Đoán Nguyễn Văn Nuôi
1963-1964 Nguyễn An Thuồn Nguyễn Đình Niêng
1964-1967 Trương Quang Tập Nguyễn An Bền
1967-1968 Nguyễn An Bền Trương Quang Nghĩa
 
 
          Năm 1968-1969: HTX Kim Lung,  HTX Mỹ Ngọc nhập lại thành HTX Kim Ngọc.
 
          Ông Trần Bá Thái làm Chủ nhiệm. Ông Nguyễn An Bền, Phó Chủ nhiệm
 
          Bí thư đoàn thanh niên xã Quỳnh Kim qua các thời kỳ:
          1957: Đồng chí Ngô Thị Khuy
          1957-1960: Đồng chí Nguyễn Đình Nhích
          1961-1962: Đồng chí Nguyễn Đình Trờng
          1962-1963: Đồng chí Ngô Trí Dũng
          1963-1964: Đồng chí Đặng Văn Nghi
          1964-1965: Đồng chí Nguyễn Đình Niên
          1965-1967: Đồng chí Đặng Đình Suý
          1967-1969: Đồng chí Lê Thị Chuôi
          Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Quỳnh Kim qua các thời kỳ:
          1957-1959: bà Ngô Thị Cản
          1960-1963: bà Ngô Thị Uông
          1964 -1966:           bà Lê Thị Chuôi
          1967-1969: bà Ngô Thị Uông
 
ĐẢNG BỘ XÃ MAI HÙNG QUA CÁC KỲ ĐẠI HỘI
Đầu tháng 3/1969, Đảng bộ xã Quỳnh Hợp và Quỳnh Kim được sát nhập lấy tên là Đảng bộ Mai Giang.
Ban Chấp hành lâm thời bao gồm các đồng chí:
1. Phạm Đình Quế, Bí thư Đảng ủy
2. Nguyễn Đình Đoán, Phó Bí thư trực đảng
3. Nguyễn An Nghìn, Chủ tịch UBHC
4. Đậu Thị Phưng, Phó Chủ tịch UBHC
5. Bùi Quang Trọng, Trưởng Công an
6. Nguyễn Thị Mỹ, Bí thư xã Đoàn
7. Văn Thị Liên, Bí thư Phụ nữ
8. Ngô Trí Hai, Chủ nhiệm hợp tác xã
Đại hội Đảng bộ xã Mai giang lần thứ II (ngày 22/3/1969).
Đại hội bầu ra BCH và được phân công:
Các đồng chí trong BTV
1. Phạm Đình Quế, Bí thư Đảng ủy
2. Nguyễn Đình Đoán, Phó Bí thư trực đảng
3. Nguyễn An Nghìn, Chủ tịch UBHC
4. Đậu Thị Phưng, Phó Chủ tịch UBHC
5. Lê Công Tuyên, UVTV
Các đồng chí trong BCH
1. Bùi Văn Khính, Xã đội trưởng
2. Bùi Quang Trọng, Trưởng Công an
3. Nguyễn Thị Liên, Bí thư Phụ nữ
4. Nguyễn Thị  Mỹ, Bí thư Đoàn
5. Lê Công Dơu, Chủ nhiệm cửa hàng
6. Ngô Trí Hai, Chủ nhiệm HTX nông nghiệp
7.  Đậu Đức Thâu, Bí thư chi bộ cơ sở
8. Quách Hữu Kiệp, Bí thư chi bộ cơ sở
Ngày 21/4/1969, theo quyết định số 201/NV, của Bộ trưởng Nội vụ tên xã Mai Hùng ra đời từ đây.
Đại hội Đảng bộ xã Mai Hùng lần thứ III (ngày 18/5/1970).
Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Các đồng chí trong BTV
1. Nguyễn An Nghìn,  Bí thư Đảng ủy
2. Lê Công Tuyên, UVTV
3. Bùi Quang Trọng, Chủ tịch UBHC
4. Nguyễn Thị Mỹ,  Phó Chủ tịch UBHC
5. Ngô Trí Hai, Chủ nhiệm HTX nông nghiệp
Các đồng chí trong BCH
1. Bùi Văn Khính, Xã đội trưởng
2. Trần Đức Chưu, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
3. Đinh Thị Thảo, Bí thư Phụ nữ
4. Đoàn Văn Ước, Bí thư Đoàn
5. Nguyễn Văn Điền, Chủ nhiệm cửa hàng
6. Nguyễn Văn Tục, Phó Chủ nhiêm HTX nông nghiệp
7. Đinh Văn Chi, Bí thư chi bộ cơ sở
8. Văn Đức Liễn, Bí thư chi bộ cơ sở
Đại hội Đảng bộ lần thứ IV (tháng 4/1971).
Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Các đồng chí trong BTV
1. Lê Công Tuyên, Bí thư Đảng ủy
2. Nguyễn An Nghìn, Phó Bí thư - Chủ tịch UBHC
3. Văn Đức Đa, trực đảng
4. Nguyễn Thị Mỹ,  Phó Chủ tịch UBHC, nội chính
5. Ngô Trí Hai, Chủ nhiệm HTX nông nghiệp
Các đồng chí trong BCH
1. Bùi Văn Hiển, Xã đội trưởng
2. Ngô Thị Cản, Bí thư Phụ nữ
3. Bùi Thị Cần, Bí thư Đoàn
4. Nguyễn Văn Điền, Chủ nhiệm cửa hàng
5. Nguyễn Văn Tục, Phó Chủ nhiệm HTX nông nghiệp
6. Bùi Văn Viễn, Bí thư chi bộ
7. Đinh Văn Chi, Bí thư chi bộ
8. Ngô Trí Thảnh, Chủ nhiệm HTX tín dụng
Trong thời kỳ này HTX Thống Nhất được tách ra làm 3 HTX:
HTX Tiền Phong: ông Bùi Văn Viễn làm Chủ nhiệm
HTX Toàn Thắng: ông Đinh Văn Chi làm Chủ nhiệm
HTX  Kim Ngọc: ông Bùi Văn Khính làm Chủ nhiệm
Đại hội Đảng bộ lần thứ V (tháng 2/1972).
 Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Các đồng chí trong BTV
1. Bùi Văn Khính, Bí thư Đảng ủy
2. Nguyễn An Nghìn, Phó Bí thư, Chủ tịch UBHC (sau đó huyện điều động đi chỉ đạo dân công hoả tuyến, đồng chí  Ngô Trí Vơng, Bí thư chi bộ lên thay)
3. Văn Đức Đa, trực đảng
4. Nguyễn Thị Mỹ,  Phó Chủ tịch UBND, nội chính
5. Ngô Trí Hai, Chủ nhiệm HTX nông nghiệp
Các đồng chí trong BCH
1. Lê Công Tuyên, Chủ tịch MTTQ
2. Đặng Văn Dấp, Xã đội trưởng
3. Ngô Thị Cản, Bí thư Phụ nữ
4. Đậu Thị Mận, Bí thư Đoàn
5. Nguyễn Văn Điền, Chủ nhiệm cửa hàng mua bán
6. Nguyễn Văn Tục, Phó Chủ nhiệm HTX nông nghiệp
7. Bùi Văn Viễn, Chủ nhiệm HTX
8. Đinh Văn Chi, Chủ nhiệm HTX Toàn Thắng
Đại hội Đảng bộ lần thứ VI (1973).
 Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Các đồng chí trong BTV
1. Lê Công Tuyên, Bí thư Đảng ủy
2. Ngô Trí Thảnh, tổ chức
3. Ngô Trí Nhoạn, Chủ tịch UBHC
4. Lê Đức Thơn, Phó Chủ tịch UBHC
5. Văn Đức Đa, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
Các đồng chí trong BCH
1. Đặng Văn Dấp, Xã đội trưởng
2. Trần Bá Thái, phụ trách nông nghiệp
3. Nguyễn Văn Tục, Phó Chủ nhiệm HTX
4. Nguyễn Thị Nghi, Bí thư Phụ nữ
5. Văn Thị Lĩnh, Bí thư Đoàn thanh niên
6. Bùi Quang Trọng, Chủ nhiệm HTX tín dụng
7. Ngô Trí Phăng, Bí thư Chi bộ
8. Bùi Văn Viễn, Bí thư Chi bộ
Đại hội Đảng bộ lần thứ VII (cuối năm 1975).
Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Các đồng chí trong BTV
1. Ngô Trí Nhung, Bí thư Đảng ủy
2. Quách Hữu Trình, trực đảng
3. Lê Đức Thơn, Chủ tịch UBHC
4. Ngô Trí Nhoạn, Chủ tịch MTTQ
5. Lê Công Tuyên, Chủ nhiệm HTX Thống Nhất
Các đồng chí trong BCH
1. Ngô Trí Phương, Phó Chủ tịch UBHC
2. Đặng Văn Dấp, Xã đội trưởng
3. Nguyễn Thị Nghi, Bí thư Phụ nữ
4. Nguyễn Thị Tuyền, Bí thư Thanh niên
5. Nguyễn Văn Tục, Phó Chủ nhiệm HTX
6. Ngô Văn Đởn, Bí thư Chi bộ cơ sở
7. Đinh Văn Chi, Bí thư Chi bộ cơ sở
8. Đậu Viết Dựa, Uỷ viên tài chính.
Đại hội  Đảng bộ lần thứ VIII, (ngày 5/4/1976).
Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Các đồng chí trong BTV
1. Quách Hữu Trình, Bí thư Đảng ủy
2. Ngô Trí Phương, Phó Bí thư, trực đảng
3. Lê Đức Thơn, Chủ tịch UBND
4. Ngô Trí Nhoạn, phụ trách tuyên giáo, Mặt trận
5. Ngô Văn Tuyền, Chủ nhiệm HTX
Các đồng chí trong BCH
1. Đặng Văn Dấp, Phó Chủ tịch UBND
2. Văn Đức Phú, Xã đội trưởng
3. Vũ Xuân Tuế, Bí thư Đoàn
4. Ngô Thị Tỉu, Chủ tịch Hội Phụ nữ
5. Nguyễn Thị Tuyền
6. Nguyễn Văn Tục, Phó Chủ nhiệm HTX
7. Hồ Thị Huân, phụ trách nghề cói
8. Nguyễn Văn Nuôi, Bí thư Chi bộ cơ sở
          Đại hội Đảng bộ lần thứ IX, (tháng 5/1977)
          Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
          Các đồng chí trong BTV
          1. Quách Hữu Trình, Bí thư Đảng ủy
2.Văn Đức Ngãi, trực đảng
3. Ngô Trí Nhoạn, Chủ tịch UBND
          4. Ngô Văn Tuyền, Chủ nhiệm HTX nông nghiệp
          5.  Ngô Trí Phương, Phụ trách Tuyên giáo, Mặt trận
          Các đồng chí trong Ban Chấp hành
          1. Đặng Văn Dấp, Phó Chủ tịch UBND
          2. Vũ Xuân Tuế Tuế, Xã đội trưởng
          3. Đinh Văn Năm, Phó Chủ nhiệm, phụ trách chăn nuôi
          4. Ngô Thị Tỉu, Chủ tịch Hội Phụ nữ
          5. Nguyễn Thị Tuyền, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
          6. Nguyễn Văn Tục, trưởng ban kiểm soát
          7. Văn Đức Phú, phụ trách cơ sở
          (Đồng chí: Đậu Viết Tuy, Bí thư Đoàn được 3 tháng, đồng chí Văn Đức Ưng thay)
          Đại hội Đảng bộ lần thứ X (từ ngày 30/4 đến ngày 2/5/1979).
          Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Các đồng chí trong BTV
          1. Trần Đức Tộ, Bí thư Đảng ủy (tháng 6/1980, đồng chí Lê Đức Tròn Huyện ủy viên thay)
2. Ngô Trí Phương, trực đảng
3. Ngô Trí Nhoạn, Chủ tịch UBND
4. Ngô Văn Viên, phụ trách tuyên giáo, Mặt trận
5. Văn Đức Ngãi, Chủ nhiệm HTX
Các đồng chí trong BCH
1. Vũ Xuân Phương, Phó Chủ tịch UBND
2. Vũ Xuân Tuế, Xã đội trưởng
3. Trần Đức Thắng, Bí thư Đoàn thanh niên
4. Ngô Thị Tỉu, Chủ tịch Hội Phụ nữ
5. Ngô Trí Lý, Phó Chủ nhiệm HTX
6. Văn Đức Ưng, Uỷ viên Ban chủ nhiệm
7. Văn Đức Phú, phụ trách cơ sở
8. Nguyễn Văn Tục, Trưởng Ban kiểm soát
          Đại hội Đảng bộ lần thứ XI (cuối năm 1981).
Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Các đồng chí trong BTV
1. Lê Đức Tráng, Bí thư Đảng ủy
2. Lê Đăng Thì, trực đảng
3. Văn Đức Phú, Chủ tịch UBND
4. Ngô Văn Viên, phụ trách tuyên giáo, Mặt trận
5. Ngô Văn Tuyền, Chủ nhiệm HTX
Các đồng chí trong BCH:
1. Lê Đức Thơn, Phó Chủ tịch UBND
2. Lê Công Đính, Xã đội trưởng
3. Trần Đức Thân, Bí thư Đoàn thanh niên
4. Đinh Thị Thảo, Chủ tịch Hội Phụ nữ
5. Văn Đức Ưng, Phó Chủ nhiệm HTX
6. Ngô Trí Lý, Phó Chủ nhiệm
7. Nguyễn Văn Nuôi, Chi bộ
8. Đậu Viết Dựa, Trưởng Ban kiểm soát
Đại hội Đảng bộ lần thứ XII, tháng 8/1982 (nhiệm kỳ 1982-1985).
Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Các đồng chí trong BTV
1. Ngô Văn Tuyền, Bí thư Đảng ủy
2. Lê Đăng Thì, trực đảng
3. Văn Đức Phú, Chủ tịch UBND
4. Trần Đức Thắng, phụ trách tuyên giáo, Mặt trận
5. Văn Đức Ưng, Chủ nhiệm HTX
Các đồng chí trong BCH:
1. Lê Đức Thơn, Phó Chủ tịch UBND
2. Lê Bá Dinh, Xã đội trưởng
3. Trần Bá Thân, Bí thư Đoàn thanh niên
4. Đinh Thị Thảo, Chủ tịch Hội Phụ nữ
5. Nguyễn Đức Hiên, Bí thư chi bộ
6. Ngô Trí Bách, Trưởng Ban kiểm soát
7. Nguyễn Văn Nuôi, Phó Chủ nhiệm HTX
8. Đậu Viết Chính, Chủ nhiệm cửa hàng mua bán
, Đại hội Đảng bộ lần thứ XIII từ ngày 4-5 tháng 10/198 (nhiệm kỳ 1985-1987).
Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Các đồng chí trong BTV
1. Ngô Văn Tuyền, Bí thư Đảng ủy
2. Lê Đăng Thì, trực đảng
3. Văn Đức Phú, Chủ tịch UBND
4. Bùi Văn Dởn, phụ trách tuyên giáo, Mặt trận (tháng 8/1986 chuyển qua UBND, đồng chí Lê Công Bảng thay)
5. Văn Đức Ưng, Chủ nhiệm HTX
Các đồng chí trong BCH:
1. Đậu Viết Huê, Phó Chủ tịch UBND (tháng3/1986, đồng chí Hiên thay)
2. Nguyễn Đức Hiên, Xã đội (tháng 3/1986, đồng chí Vũ Xuân Diện thay)
3. Ngô Trí Hưng, Bí thư Đoàn thanh niên
4. Đinh Thị Thảo, Chủ tịch Hội Phụ nữ
5. Ngô Trí Bách, Trưởng Ban kiểm soát
6. Nguyễn Văn Nuôi, Phó Chủ nhiệm HTX
7. Vũ Xuân Diện
8. Trần Đức Kiểm
9. Bùi Quang Hồng
10. Đậu Viết Chính, Chủ nhiệm cửa hàng
          Đại hội Đảng bộ lần thứ XIV từ ngày 22-23/10/1987 (nhiệm kỳ 1987-1991).
          Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Các đồng chí trong BTV
1. Ngô Văn Tuyền, Bí thư Đảng ủy
2. Nguyễn Đức Hiên, trực đảng
3. Văn Đức Ưng, Chủ tịch UBND
4. Lê Công Bảng, phụ trách tuyên giáo, Mặt trận
5. Đinh Văn Năm, Chủ nhiệm HTX
Các đồng chí trong BCH:
1. Vũ Xuân Diện, Phó Chủ tịch UBND
2. Bùi Quang Hồng, Xã đội trưởng
3. Ngô Văn Phú, Bí thư Đoàn thanh niên
4. Đinh Thị Thảo, Chủ tịch HLHPN
5. Ngô Trí Bách, Trưởng Ban kiểm soát
6. Bùi Văn Xuyên, Phó Chủ nhiệm HTX
7. Bùi Văn Dởn, Uỷ viên quản lý ruộng đất
8. Đặng Văn Dấp, Chủ tịch Hội Nông dân
9. Trần Đức Thắng, thư ký Hội đồng nhân dân
10. Nguyễn Xuân Mãn, Bí thư chi bộ
11. Lê Đăng Thì, Chủ nhiệm cửa hàng mua bán
12. Lê Công Dưu, Bí thư chi bộ
Đại hội Đảng bộ lần thứ XV (từ ngày 24 - 25/11/1991).
Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Các đồng chí trong BTV
1. Nguyễn Trọng Lợi, Bí thư Đảng ủy
2. Nguyễn Văn Tuấn, Phó Bí thư, trực đảng
3. Văn Đức Ưng, Chủ tịch UBND
Các đồng chí trong BCH:
1. Nguyễn Đức Hiên, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
2. Vũ Xuân Diện, Phó Chủ tịch UBND
3. Nguyễn Xuân Mãn, Xã đội trưởng
4. Nguyễn Thị Thắm, Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ
5. Trần Đức Thắng, Bí thư chi bộ
6. Lê Công Duyễn, Bí thư chi bộ
7. Trần Đức Bang, Bí thư chi bộ
Đại hội Đảng bộ lần thứ XVI từ 7h30' ngày 16/10/1994 (nhiệm kỳ 1994-1996).
Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Các đồng chí trong BTV
1. Nguyễn Trọng Lợi, Bí thư Đảng ủy
2. Nguyễn Văn Tuấn, Phó Bí thư, trực đảng
3. Văn Đức Ưng, Chủ tịch UBND
4. Nguyễn Đức Hiên, Phó Chủ tịch UBND
5. Lê Đăng Thì, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
Các đồng chí trong BCH:
1. Nguyễn Đình Nhích, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh
2. Nguyễn Xuân Mãn, Xã đội trưởng
3. Nguyễn Thị Nhụ, Chủ tịch Hội Phụ nữ
4. Nguyễn Xuân Bốn, Bí thư Đoàn thanh niên
5. Đinh Văn Dinh, phụ trách giao thông, thuỷ lợi
6. Lê Công Thụ, Bí thư chi bộ
7. Trần Đức Tình, Bí thư chi bộ
8. Văn Huy Tiềm, Hiệu trưởng trường Tiểu học Mai Hùng
Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII từ 7h30' ngày 20-21/10/1996 (nhiệm kỳ 1996-2000).
Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
          Các đồng chí trong BTV
1. Nguyễn Trọng Lợi, Bí thư Đảng ủy (tháng 7, đồng chí Lợi bị tai nạn mất, đồng chí Văn Đức Ưng thay)
2. Nguyễn Văn Tuấn, Phó Bí thư, trực đảng
3. Văn Đức Ưng, Chủ tịch UBND (tháng 7/1997, đồng chí Hiên thay)
4. Nguyễn Đức Hiên, Phó Chủ tịch UBND (tháng 7/ 1997, đồng chí Văn Đức Mậu được bổ sung vào BCH thay đồng chí Hiên)
Đồng chí: Lê Đăng Thì, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
Các đồng chí trong BCH:
1. Nguyễn Đình Nhích, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh
2. Nguyễn Xuân Mãn, Xã đội trưởng
3. Nguyễn Thị Nhụ, Chủ tịch Hội Phụ nữ
4. Nguyễn Xuân Bốn, Bí thư Đoàn thanh niên
5. Đinh Văn Dinh, phụ trách giao thông, thuỷ lợi
6. Lê Công Dưu, cơ sở (bổ sung vào BCH tháng 7/1997)
7. Ngô Trí Tình, Chủ tịch Hội Nông dân
8. Văn Huy Tiềm, Hiệu trưởng trường Tiểu học Mai Hùng
Đại hội Đảng bộ lần thứ XVIII Từ 7h30' ngày 25/10/2000 (nhiệm kỳ 2000 - 2005).
 Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Các đồng chí trong BTV
1. Nguyễn Văn Tuấn, Bí thư Đảng ủy
2. Lê Công Thụ, Phó Bí thư, trực đảng (tháng 9/2004 đồng chí Nguyễn Xuân Bốn thay)
3. Nguyễn Đức Hiên, Chủ tịch UBND (tháng 9/2004, đồng chí Lê Công Thụ thay đồng chí Hiên)
4. Lê Đăng Thì, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
5. Lê  Công Dưu, Phó Chủ tịch UBND
Các đồng chí trong BCH:
1. Ngô Văn Bàng, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh
2. Văn Đức Mậu, Xã đội trưởng
3. Hồ Thị Tuyết, Chủ tịch HLHPN
4. Đậu Đức Đề, Bí thư Đoàn
5. Ngô Trí Tình, Chủ tịch Hội Nông dân
6. Văn Đức Nhẫn, Bí thư chi bộ cơ sở
7. Ngô Trí Tài, Chủ nhiệm HTX Kim Ngọc
8. Đậu Viết Hiên, Chủ nhiệm HTX Toàn Thắng
9. Lê Hữu Trung, Chủ nhiệm HTX Tiền Phong
10. Văn Huy Tiềm, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Mai Hùng
11. Nguyễn Xuân Bốn, Uỷ viên văn hoá
12. Lê Đức Mỹ (tháng 8/2004 thay đồng chí Đề, Bí thư Đoàn)
13. Ngô Trí Thạch, Trưởng Công an
, Đại hội đại biểu lần thứ XIX từ 7h30' ngày 17-18/7/2005 (nhiệm kỳ 2005 - 2010).
Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Các đồng chí trong BTV
1. Nguyễn Văn Tuấn, Bí thư Đảng ủy
2. Nguyễn Xuân Bốn, Phó Bí thư trực đảng
3. Lê Công Thụ, Phó Bí thư, Chủ tịch UBND (tháng 9/2009 đồng chí Thụ được huyện điều động giữ chức vụ Tổng đội trưởng TNXP, đồng chí Đậu Viết Hiên thay)
4. Lê Đăng Thì, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc (tháng 10/2007, đồng chí Thì mất, đồng chí Hồ Thị Tuyết thay)
5. Đậu Viết Hiên, Phó Chủ tịch phụ trách kinh tế (tháng 9/2009, đồng chí Văn Đức Lực thay).
Các đồng chí trong BCH:
1.
2. Đậu Đức Đề, Xã đội trưởng
3. Trần Đức Tình Chủ tịch Hội Nông dân
4. Hồ Thị Tuyết, Chủ tịch HLHPN (tháng 9/ 2007, đồng chí Ngô Thị Hoà thay)
5. Lê Đức Mỹ, Bí thư Đoàn thanh niên
6. Quách Hữu Thuận, Chủ nhiệm HTX Tiền phong
7. Ngô Trí Thạch, trưởng Công an
8. Nguyễn Đình Kha, Trưởng Ban kiểm soát HTX
9. Ngô Trí Tài, Bí thư chi bộ cơ sở
10. Trần Thị Hương, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Mai Hùng (tháng 9/2007, đồng chí Ngô Trí Xuyên thay)
11. Lê Hữu Trung, Phó Chủ tịch phụ trách văn hoá
 
          Đại hội đại biểu lần thứ XX, Từ 7h30' ngày 17-18/7/2010 (nhiệm kỳ 2010 - 2015).
Đại hội đã bầu ra BCH và được phân công:
Các đồng chí trong BTV
1. Nguyễn Xuân Bốn, Bí thư Đảng ủy
2. Lê Hữu Trung, Phó Bí thư, trực đảng
3. Đậu Viết Hiên, Chủ tịch UBND
4. Nguyễn Văn Tuấn, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
5. Văn Đức Lực, Phó Chủ tịch phụ trách kinh tế
Các đồng chí trong BCH:
1. Nguyễn An Ước, Chủ tịch  Hội Cựu chiến binh
2. Đậu Đức Đề, Xã đội trưởng
          3. Hồ Thị Tuyết, Phó Chủ tịch phụ trách văn hoá - xã hội
4. Ngô Thị Hoà, Chủ tịch HLHPN
5. Lê Đức Mỹ, Bí thư Đoàn thanh niên (tháng 11/2011, đồng chí Tuệ lên thay, đồng chí Mỹ chuyển lên làm Phó Chủ tịch HĐND)
6. Trần Đức Tình, Chủ tịch Hội Nông dân
7. Ngô Trí Thạch, trưởng Công an
8. Lê Đăng Tùng, văn hoá - xã hội
9. Phạm Đình Tuệ, Công tác Đoàn đội
10. Lê Thị Thu Thanh, khối giáo dục
11. Ngô Trí Nam, thanh tra nhân dân
12. Ngô Trí Tài, cơ sở HTX Kim Ngọc
13. Lê Đức Chung, Phó Chủ tịch HND
14. Ngô Thị Hà, Văn phòng Đảng uỷ
 
 
 
Cán bộ tiền khởi nghĩa
             1. Ngô Trí Tố,       xóm 25,  nguyên là thượng tá Công an nghỉ hưu
          2. Lê Đức Nhuận, xóm 1
Bà mẹ Việt Nam Anh Hùng
          Trần Thị Cưởi có con là liệt sĩ Ngô Trí Giàng, người thờ phụng Ngô Trí Tuyển.
                                                    
 
 
DANH SÁCH LIỆT SỸ
 
 
TT Họ và tên Năm sinh Ngày nhập ngũ Ngày hy sinh Nơi ở Thân nhân liệt sĩ
1 Trần Bá Vườn   8/1949 21/8/1949 3.4 Bố: Trần Xảo
2 Nguyễn Đình Dũng 1929   30/8/1949 3.4 Nguyễn Đình Tuynh
3 Văn Đức Lập 1929 6/1952 01/1953 15 Văn Đức Lạng
4 Bùi Văn Tơm 1928 1949 23/12/1953 2.5 Bùi Văn Khơm
5 Ngô Trí Quát 1929   3/1954 3.4 Ngô Trí Trữ
6 Đậu Đức Sung 1930 20/5/1954 21/7/1954 11 mẹ Đậu Thị Thuân
7 NguyễnXuân Huỳnh 1932   7/1954 13 Nguyễn Xuân Ngợc
8 Quách Hữu Kịa     5/1959 12 Em: Quách Hữu Kiệp
9 Đinh Văn Phán 1939 2/1959 11/1/1964 11 Đinh Văn áng
10 Đậu Danh Vịnh     14/8/1965 11 Vợ: Vũ Thị Viên
11 Nguyễn Văn Châu 1944 02/1965 20/11/1965 12 Nguyễn Văn Tình
12 Nguyễn Thị Miền 1946   25/4/1966 15 Nguyễn văn Điền
13 Đoàn Thị Lương 1938   25/4/1966 13 Chồng: Bùi Văn Hiển
14 Trần Văn Tâm 1942   16/6/1966 10 Trần Văn Biện
15 Văn Đức Huấn 1939   30/7/1966 9 Vợ: Phạm Thị Đào
16 Lê Đình Lựu 1945 8/1964 18/7/1966 9 mẹ Đinh Thị Ước
17 Văn Đức Dũng 1936 5/1965 23/8/1966 8 Vợ: Văn Thị Viềng
18 Lê Văn Đoang 1941 1965 18/12/1966 3.4 Lê Đăng Duân
19 Lê Đình Bàng 1925   08/4/1966 11 Vợ: Nguyễn Thị Tiệp
20 Văn Thị Tân 1949   25/4/1966 12 Đậu Thị Điểm
21 Lê Thị Đoan 1946   25/4/1966 15 Lê Đức Đươm
22 Văn Thị Thợi 1942   25/4/1966 12 Văn Đức Tước
23 Văn Đức Thại 1948   25/4/1966 12 Văn Đức Tước
24 Đoàn Văn Ngự 1945   25/4/1966 15 Đoàn Văn Huấn
25 Văn Thị Mỹ 1940   25/4/1966 13 Văn Đức Khuông
26 Đoàn Văn Được 1947 5/10/1964 17/3/1967 14 mẹ Nguyễn Thị Tiệu
27 Bùi Thị Thanh 1943   18/4/1967 2.5 Chồng: Ngô Trí Thát
28 Văn Đức Nhuận 1947 12/1965 24/8/1967 8 Văn Đức Sy
29 Ngô Trí Thế 1945 12/1965 07/9/1967 2-5 Đậu Thị khuốt
30 Vũ Xuân Thảo 1937 2/1960 25/12/1967 10 Vợ: Trần Thị Lòn
31 Bùi Văn Uy 1942 12/1965 21/1/1968 2.5 mẹ Lê Thị Trân
32 Trương Văn Trường 1944 4/1963 04/2/1968 16 Trương Văn Khoa
33 Đinh Văn Tha 1946 12/1959 30/2/1968 9 Đinh Văn Thiết
34 Lê Công 1942 4/1963 17/3/1968 13 Lê Công Doãn
35 Vũ Xuân Xế 1938 1/1966 14/8/1968 10 Vợ: Nguyễn Thi Đặng
36 Ngô Trí Thân 1948 2/1965 25/5/1968 3.4 Ngô Trí Tuất
37 Vũ Ngọc Đĩnh 1950   14/8/1968 1 mẹ Nguyễn Thị Dìn
48 Nguyễn Đình Hoằng 1947 12/1965 09/5/1968 16 mẹ Nguyễn Thi Trợi
39 Trần Phi Khanh          
40 Ngô Trí Phơng 1938 5/1965 18/1/1969 3.4 Trần Thị Chắt
41 Lê Đăng Dịnh 1937 5/1965 16/4/1969 2.5 Vợ: Nguyễn Thị Diệu
42 Ngô Trí Hải 1948 6/1968 24/5/1969 6 Ngô Trí Hai
43 Nguyễn Đình Phiên 1947 7/1965 11/5/1969 1 Nguyễn Đình Thự
44 Đậu huy Phước 1941   19/6/1969 10 Đậu Huy Thước
45 Trần Kim Cương 1944 8/1967 05/11/1969 3.4 Vợ: Ngô Thị Tỉu
46 Quách Sỹ Quý 1939 2/1965 22/11/1969 12 Nguyễn Thị Chơn
47 Ngô Xuân Chính 1951 2/1969 01/2/1970 3.4 Ngô Trí Khính
48 Nguyễn Quốc Trị 1947   23/4/1970 2-5 Nguyễn An Ngữ
49 Nguyễn Đình Hội 1942 2/1961 21/6/1970 1 Nguyễn Tất Đạt
50 Nguyễn Văn Hậu 1950 2/1968 05/7/1970 12 Nguyễn Thị Phông
51 Đậu Phi Nhiệu 1944 2/1964 22/7/1970 9 Đậu Huy Vóc
52 Nguyễn Thị Diệm 1950 11/1968 23/8/1970 1 Nguyễn Đình Sặt
53 Nguyễn An Huấn 1949 2/1968 26/9/1970 2-5 Nguyễn An Hớn
54 Trần Đức Đợt 1946 7/1965 17/10/1970 3.4 Trần Đức Cợt
55 Ngô Trí Giàng 1949 5/1968 10/11/1970 3.4 MẹTrần Thị Cưởi
56 Quách Hữu Thự 1943 5/1968 08/4/1971 12 Vợ: Nguyễn Thị Lợi
57 Đậu Viết Thợi 1952 4/1970 21/9/1971 8 Đậu Viết Trì
58 Đặng Văn Thịnh 1952 4/1970 15/1/1972 3.4 Đặng Văn Xế
59 Bùi Ngọc Linh 1949 2/1968 17/3/1972 14 Lê Thị Trọn
60 Nguyễn Văn Kim 1950 12/1967 23/4/1972 3.4 Vũ Thị Vơn
61 Ngô Trí Nhợng 1942 4/1964 30/4/1972 2-5 Vợ: Bùi Thị Dìn
62 Ngô Trí Dung 1947 5/1965 15/5/1972 3.4 mẹ Nguyễn Thị Đảng
63 Văn Đức Trung 1950 5/1970 15/6/1972 15 Văn Đức Nhẫn
64 NguyễnXuân Khang 1948 1/1971 26/7/1972 13 Hoàng Thị Tư
65 Đậu Đức Đặng 1945 2/1965 26/7/1972 8 Đậu Đức Xấn
66 Nguyễn An Nghìn 1930 2/1971 08/10/1972 7 Vợ: Nguyễn Thị Liền
67 Quách Hữu Ân 1947 7/1967 17/8/1972 12 Quách Hữu Tư
68 Ngô Trí Tế 1945 12/1965 12/10/1972 3.4 mẹ Vũ Thị Vơn
69            
70 Nguyễn Đình Bửu 1954 9/1972 01/10/1973 3.4 Nguyễn Đình Dơn
71 Văn Đức Yến 1944   12/12/1973 13 Vợ: Lê Thị Tặng
72 Văn Đức Thư 1953 4/1970 10/6/1973 13 Văn Đức Tri
73 Văn Đức Mận 1949 1/1971 19/8/1973 8 Văn Đức Tình
74 Nguyễn Xuân Ký 1951 9/1972 29/3/1975 15 Vợ: Quách Thị Phự
75 Trần Văn Hùng 1958 8/1976 12/7/1977 10 Trần Văn Lan
76 Lê Công Đức 1953 2/1973 12/4/1978 15 Lê Đức Lực
77 Đậu Huy Huyền 1953 2/1975 15/3/1978 10 Đậu Huy Phước
78 Đậu Đức Huệ 1963 2/1982 27/8/1982 11 Văn Thị Hưng
             
 
 
          DANH SÁCH ĐẢNG VIÊN ĐƯỢC NHẬN HUY HIỆU ĐẢNG
(Tính đến ngày 3/2/2013)
          1. Đảng viên được nhận huy hiệu 60 năm tuổi Đảng
 
TT Họ và tên Năm sinh Vào Đảng Chi bộ Ghi chú
Quyết định Chính thức
1 Ngô Trí Tố 5/10/1926 18/5/1946 18/8/1946 2.5  
2 Nguyễn Thị Thửu 27/7/1925 10/9/1948 10/3/1948 1  
3 Trần Đức Cợt 3/10/1913 3/2/1949 5/1/1950 3.4 Chết
4 Trần Đức Tộ 15/7/1925 25/12/1947 10/5/1948 2.5 Chết
5 Trần Đức Mớt 15/2/1928 14/6/1949 30/10/1950 2.5  
6 Trần Bá Thái 20/1/1921 1/11/1948 30/3/1949 8 Chết
7 Lê Đức Tráng 10/1925 15/5/1950 15/9/1950 17  
8 Trần Đức Hoạch 23/11/1922 5/10/1947 5/5/1948    
9 Bùi Văn Khính 17/11/1927 17/11/1950 17/11/1951    
 
 
          2. Đảng viên được nhận huy hiệu 50 năm tuổi Đảng
 
TT Họ và tên Năm sinh Vào Đảng Chi bộ Ghi chú
Quyết định Chính thức
1 Ngô Văn Viêng   20/5/1949 5/6/1949 2.5 Chết
2 Ngô Trí Quyết   20/9/1949 5/1/1950 3.4 Chết
3 Ngô Xuân Viên   12/1946 3/1947 2.5 Chết
4 Nguyễn An Phợng 6/2/1918 4/4/1949 4/12/1949 6 Chết
5 Đậu Đức Thâu   2/2/1949 20/6/1949 9 Chết
6 Đậu Đức Xấn   20/10/1949 20/10/1950 8 Chết
7 Văn Đức Đa   9/9/1949 9/1/1950 9 Chết
8 Nguyễn Trọng Nguyên   14/4/1955 14/4/1956 8 Chết
9 Nguyễn Xuân Kỷ 20/2/1922 6/5/1955 6/6/1956 14  
10 Nguyễn Văn Điền 12/10/1917 3/4/1955 3/4/1956 15  
11 Lê Công Đính 12/1/1930 27/5/1957 27/12/1957 15  
12 Lê Công Trạch 10/10/1932 8/6/1959 20/3/1960 14  
13 Phạm Thi Thoàn 12/1922 20/5/1956 20/5/1957 1 Chết
14 Nguyễn Xuân Diệu 3/2/1935 23/12/1959 23/12/1960 14  
15 Nguyễn Xuân Chi 1/11930 26/12/1959 2/7/1960 13  
16 Ngô Trí Tuỵnh 10/2/1933 20/6/1959 10/3/1960 6 chết
17 Văn Đức Uông 1933 25/1/1960 25/1/1961    
 
          3. Đảng viên được tặng huy hiệu 40 năm tuổi Đảng
 
TT Họ và tên Năm sinh Vào Đảng Chi bộ Ghi chú
Quyết định Chính thức
1 Nguyễn Đình Thoái   7/4/1960 13/10/1960 3.4 Chết
2 Văn Đức Nhàn 5/8/1931 6/1/1960 24/1/1961 13  
3 Lê Công Dơu   111960 10/1/1961 15 Chết
4 Lê Trọng Hoà 13/1/1928 3/2/1961 6/3/1962 11  
5 Nguyễn An Tuyển 23/11/1938 9/2/1961 5/4/1962 19  
6 Ngô Trí Huệ 5/3/1935 28/2/1961 6/3/1962 8  
7 Nguyễn Đình Nhích 27/10/1936 6/8/1961 6/8/1962 17  
8 Bùi Quang Trọng 4/2/1933 21/11/1961 30/11/1962 13  
9 Ngô Trí Mên 10/2/1948 2/2/1962 2/2/1963 3.4 Chết
10 Lê Công Viên 10/9/1962   19/11/1963 12 Chết
11 Lê Thị Phòng 10/12/1936 4/2/1963 21/1/1964 12  
12 Bùi Văn Trạch   30/12/1962 30/1/1964 2.5 Chết
13 Ngô Văn Khầm 2/4/1936 13/6/1963 24/3/1964 2.5 Chết
14 Ngô Văn Dũng   15/6/1963 18/6/1964 19 Chết
15 Đậu Đức Thung 1/1/1940 23/3/1963 23/3/1964 8  
16 Nguyễn Xuân Môn 5/5/1933 1/1/1964 1/9/1964 20  
17 Nguyễn Văn Thiện   12/11/1963 12/8/1964   Chết
18 Ngô Trí Phức 22/12/1933 22/11/1963 22/11/1964 2.5  
19 Ngô Văn Bạng 2/12/1927 11/11/1963 22/12/1964 2.5  
20 Lê Thị Chuôi 20/6/1938 12/2/1964 12/2/1965 2.5  
21 Lê Công Bảng 17/7/1942 21/4/1964 21/4/1965 12  
22 Lê Công Hiền 2/6/1936 5/1/1964 5/1/1965 17  
23 Đoàn Văn Dục 24/6/1937 26/8/1964 26/5/1965 14  
24 Văn Đức Ân 8/3/1944 11/4/1964 9/2/1965 15  
25 Nguyễn Đình Niêng 15/8/1935 8/1/1964 9/1/1965 1  
26 Trương Quang Tập 2/1942 30/9/1964 30/9/1965 1  
27 Nguyễn Thế thư 27/7/1931 1/9/1964 1/9/1965 7  
28 Bùi Văn Phơng 7/7/1937 24/5/1965 12/2/1966 19  
29 Lê Công Duyễn 7/10/1940 18/3/1965 18/3/1966 12  
30 Ngô Trí Phương 9/9/1947 2/9/1970 2/9/1971 3.4  
31 Ngô Văn Phơi 14/4/1937 7/8/1964 10/5/1966 7  
32 Quách Hữu Diễn 3/3/1928 30/9/1965 30/9/1966 12 Chết
33 Ngô Văn Bàng 12/1/1944 1/5/1965 30/9/1966 19  
34 Nguyễn Văn Nuôi 15/3/1934 25/12/1965 25/12/1966 1  
35 Nguyễn Thị Mỹ 14/8/1942 25/12/1965 25/12/1966 1  
36 Lê Bá Duyên 6/6/1945 27/1/1966 27/1/1967 8  
37 Đỗ Thị Mỹ 27/10/1947 24/3/1966 24/3/1967 8  
38 Vũ Xuân Tuế 12/6/1944 25/1/1966 3/2/1967 11  
39 Ngô Thị Tỉu 10/12/1943 24/5/1966 24/5/1967 7  
40 Võ Văn Nhoãn 2/11/1940 9/1/1967 9/1/1968 3.4  
41 Bùi Văn Nhuận 19/8/1945 18/2/1967 18/2/1968 7  
42 Ngô Trí Tuội 1/9/1937 12/5/1967 12/5/1968 2.5  
43 Đinh Thị Hiền 13/8/1940 29/1/1966 9/9/1967 18  
44 Đậu Viết Dựa 1/7/1944 30/8/1966 1/9/1967 9  
45 Bùi Văn Dởn 12/5/1959 29/10/1967 29/10/1968 14  
46 Ngô Trí Phăng 3/2/1940 5/9/1967 5/9/1968 2.5  
47 Phan Thị Lý 7/8/1945 25/5/1967 25/5/1968 8  
48 Lê Văn Hanh 16/5/1940 14/7/1967 14/7/1968 8  
49 Đậu Viết Chính 10/3/1937 20/6/1967 20/6/1968 10  
50 Nguyễn An Nhượng 22/6/1944 10/6/1967 10/9/1968 6  
51 Nguyễn Quang Sinh 10/8/1946 3/8/1967 3/8/1968 14  
52 Ngô Văn Tuyền 4/10/1946 4/12/1967 4/12/1968 8  
53 Quách Sỹ Hà 11/12/1942 18/5/1968 1851969 15  
54 Bùi Thanh Liêm 10/10/1940 14/8/1968 25/5/1969 7  
55 Ngô Trí Qoắc 12/1/1939 27/11/1967 25/2/1969 2.5  
56 Nguyễn Đình Tuối 23/11/1945 14/2/1968 14/2/1969 3.4  
57 Hồ Đình Sớng 15/10/1939 24/1/1968 14/2/1969 15  
58 Ngô Trí Chất 10/2/1948 5/12/1967 1/1/1969 7  
59 Nguyễn Xuân Thu 20/10/1946 6/11/1968 6/11/1969 14  
60 Nguyễn ngọc Thiện 15/7/1942 19/12/1969 19/9/1970 15  
61 Trần Văn Mơ 15/9/1948 15/2/1970 15/11/1970 10  
62 Đinh Thị Thảo 16/4/1944 18/8/1968 10/9/1969 8  
63 Hồ Văn Nhì 7/9/1944 10/9/1968 9/7/1969 8  
64 Đinh Văn Chư 20/12/1943 3/10/1968 10/10/1969 11  
65 Nguyễn An Ước 15/12/1948 31/7/1969 31/1/1970 1  
66 Đặng Văn Dấp 10/8/1934 26/11/1968 26/11/1969 2.5  
67 Nguyễn Xuân 16/6/1942 30/12/1968 30/12/1969 14  
68 Nguyễn Đình Chế 5/3/1929 10/9/1969 9/11/1969 1  
69 Văn Đức Chất 18/6/1944 2/7/1968 2/7/1969 13  
70 Bùi Văn Vịnh 16/7/1943 12/6/1968 12/6/1969 2.5  
71 Ngô Văn Đờn 20/11/1948 14/4/1968 14/4/1969 8  
72 Trần Mai Vân 21/4/1949 8/3/1969 8/3/1970 7  
73 Trần Bá Tợi 12/12/1948 10/9/1969 10/9/1970 19  
74 Nguyễn Trung Văn 11/1/1947 23/8/1969 23/5/1970 1  
75 Bùi Văn My 12/5/1951 1/10/1971 1/101972 14  
76 Ngô Trí Tình 10/11/1949 28/7/1971 28/4/1972 9  
77 Ngô trí Đạo 12/12/1953 11/11/1971 9/9/1972 3-4  
78 Hồ Thị Huân 12/7/1953 19/5/1971 19/5/1972 8  
 
 
          4. Đảng viên được nhận huy hiệu 30 năm tuổi Đảng
 
TT Họ và tên Năm sinh Vào Đảng Chi bộ Ghi chú
Quyết định Chính thức
1 Đinh Văn Năm 5/4/1949 6/8/1974 6/8/1975 9  
2 Lê Bá Dinh 20/10/1950 20/4/1973 20/4/1974 9 Chết
3 Văn Đức Mậu 10/9/1952 7/9/1976 7/3/1978 9  
4 Lê Công Hải 1946 14/5/1966 14/5/1967 12 Chết
5 Nguyễn Xuân La 25/4/1951 1/8/1974 1/8/1975 15  
6 Văn Đức Nhẫn 1918 6/7/1950 1/1/1951 15 Chết
7 Văn Đức Quang 20/10/1950 20/12/1971 20/91972 10  
8 Ngô Trí Thởi 1930 10/7/1967 9/10/1968 7  
9 Trần Đức Thắng 7/1/1948 11/9/1968 1/9/1969 6 Chết
10 Ngô Trí Nhoãn 1931 25/5/1964 25/5/1965 6 Chết
11 Ngô Trí Nhung 1939 28/5/1967 28/5/1968 6 Chết
12 Bùi Văn Chánh 1940 13/10/1963 28/11/1964 6 Chết
13 Quách Hữu Thái 12/5/1954 15/4/1977 15/4/1978 17  
14 Bùi Văn Tảo 13/2/1954 4/1/1977 4/1/1978 15  
15 Lê Công Dưu 15/8/1954 14/5/1976 14/5/1977 15  
16 Bạch Ngọc Hiền 12/9/1954 19/7/1972 19/7/1973 8  
17 Nguyễn Thị Tuyền 10/11/1952 28/2/1974 5/3/1975 8  
18 Nguyễn Bá Thụy 15/9/1949 21/11/1974 21/11/1975 8  
19 Lê Thị Đào 10/10/1953 25/11/1974 25/11/1975 8  
20 Quách Sỹ Mãn 14/9/1950 1/10/1974 1/10/1975 8  
21 Lê Thị Vĩnh 13/3/1952 25/6/1972 25/6/1973 8  
22 Lê Hồng Sơn 2/8/1952 12/3/1976 12/12/1976 8  
23 Hồ Thị Huân 12/7/1953 19/5/1971 19/5/1972 8  
24 Nguyễn Thị Nhũ 2/1/1950 28/2/1974 28/2/1975 19  
25 Đặng Đình Súy 1940 24/5/1966 24/5/1967 9  
26 Trần Huy Thuấn 12/3/1953 25/3/1976 25/12/1976 3.4 Chết
27 Phạm Đình Loan 7/7/1948 26/8/1974 26/8/1975 18  
28 Hồ Thanh Minh 2/9/1953 11/6/1975 1/3/1976 T.HCS  
29 Nguyễn Xuân Thụ 20/1/1952 5/10/1975 5/7/1976 13  
30 Lê Thanh Hoàng 30/12/1948 11/5/1974 11/2/1975 16  
31 Nguyễn Đức Hiên 27/7/1953 8/1/1975 8/1/1976 1  
32 Bùi Văn My 12/5/1951 1/10/1971 1/10/1972 14  
33 Trần Đức Bi 18/9/1947 26/10/1972 26/7/1973 3.4  
34 Nguyễn Đình Kiệm 10/6/1953 3/4/1973 4/3/1974 3.4  
35 Nguyễn Trọng Nghĩa 22/2/1956 21/9/1979 17/10/1981 3.4  
36 Văn Đức Giảng 16/8/1947 6/5/1970 6/2/1971 13  
37 Trần Đức Hảo 5/9/1950 8/1/1980 8/7/1981 19 Chết
38 Ngô Trí Đạo 12/12/1953 11/11/1971 11/9/1972 3.4  
39 Ngô Trí Lý 27/4/1953 10/4/1977 10/4/1977 3.4  
40 Nguyễn Xuân Thếp       13  
41 Văn Đức Liễn       13  
42 Ngô Văn Mỹ 27/5/1949 24/6/1978 24/6/1979 2.5  
43 Đăng Văn Mạnh 8/9/1955 28/1/1978 28/1/1979 6  
44 Hồ Thị Chơng 19/5/1956 2/7/1978 27/12/1979 9  
45 Văn Tiến Thao 1/5/1954 37/12/1978 27/12/1979 12  
46 Đinh Văn áng   3/7/1949 3/11/1949 11  
47 Vũ Xuân Diện 6/10/1957 20/5/1979 20/11/1980 10 Chết
48 Hồ Văn Thoạt 23/3/1950 5/7/1973 5/7/1974 17  
49 Nguyễn Đình Được 15/2/1954 12/10/1979 12/4/1971 1  
50 Nguyễn Đình Hảo 27/12/1949 7/2/1980 7/2/1981 3/4  
51 Trần Huy Phước 12/9/1945 3/2/ 1980 3/2/1980 6  
52 Trần Đức Bang 28/8/1957 12/7/1957 12/1/1981 19  
53 Đinh Văn Hoàn 8/8/1946 15/4/1980 15/4/1981 11  
54 Đậu Viết Mên 6/4/1945 3/2/1980 3/2/1981 9  
55 Ngô Trí Nam 17/2/1955 23/3/1979 23/9/1990 6  
56 Trần Bá Thân 2/8/1957 5/1/1980 10/6/1981 19  
57 Nguyễn Văn Tuấn 15/8/1958 19/2/1982 19/8/1983 1  
58 Quách Hữu Hòa 11/8/1954 9/1/1982 9/1/1983 12  
59 Bùi Quang Hồng 15/5/1956 10/12/1981 10/6/1983 13  
60 Bùi Văn Huyên 2-9/1958 18/12/19/81 18/12/1892 19  
61 Nguyễn Xuân Mãn 28/6/1950 20/6/1981 20/6/1982 16  
62 Văn Đức Côn          
 
 
CHỦ TỊCH MẶT TRẬN TỔ QUỐC XÃ QUA CÁC THỜI KỲ
 Tháng 3 năm 1969 xã  Mai Hùng được thành lập Đại hội bầu Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc qua các thời kỳ như sau:
 
TT Năm Họ và tên Ghi chú
  1969 Lê Công Tuyên  
  1969-1970   Trần Đức Chưu  
  1970-1971 Đinh Văn Chi  
  1971-1972   Lê Công Tuyên  
  1972-1973 Văn Đức Đa  
  1973-1975 Ngô Trí Nhoạn  
  1975-1977   Nguyễn Thị Tuyên  
  1977-1979   Ngô Trí Phương  
  1979-1989   Ngô Xuân Viên  
  1980 - 1981   Trần Đức Thắng  
  1982-1987 Trần Đức Thắng  
  1987-1992 Lê Công Bảng  
  1992-1995      Nguyễn Đức Hiên  
  1995-2007      Lê Đăng Thì  
  2007-2010 Hồ Thị Tuyết  
  2010- nay Nguyễn Văn Tuấn  
 
CHỦ TỊCH HỘI CỰU CHIẾN BINH XÃ QUA CÁC THỜI KỲ
          - 1990 - 2001: Đồng chí  Nguyễn Đình Nhích
- 2001 - 2006: Đồng chí Ngô Văn Bàng
- 2006 - nay: Đồng chí  Nguyễn An Ước
 
BÍ THƯ ĐOÀN XÃ QUA CÁC THỜI KỲ
TT Năm Họ và tên Ghi chú
  3-1969 Nguyễn Thị Mỹ  
  1969-1970 Đoàn Văn Ước          
  1970-1971 Đậu Thị Mận  
  1972-1973 Văn Thị Lĩnh  
  1973-1974 Nguyễn Thị Tuyền  
  1975-1976 Vũ Xuân Tuế  
  1977-1978 Đậu Viết Tuy, làm 3 tháng, đồng chí Ưng thay  
  1978-1979 Văn Đức Ưng  
  1979-1980 Trần Đức Thắng  
  1980-1981 Trần Bá Thân  
  1982-1984 Trần Bá Thân          
  1985-1986 Trần Đức Kiển  
  1986-1987 Bùi Quang Hồng  
  1987-1987 Ngô Trí Hưng  
  1987-1994 Ngô Văn Phú  
  1994-3/2001 Nguyễn Xuân Bốn  
  4/2001-4/2004 Đậu Đức Đề  
  4/2004- 2011 Lê Đức Mỹ  
  11/2011 - nay Phạm Đình Tuệ  
       
 
CHỦ TỊCH HỘI PHỤ NỮ XÃ QUA CÁC THỜI KỲ
TT Năm Họ và tên Ghi chú
  1969 Văn Thị Liên  
  1969-1970 Đinh Thị Thảo  
  1970-1972 Ngô Thị Cản  
  1972-1975 Nguyễn Thị Nghi  
  1975-1980  Ngô Thị Tỉu  
  1980-1994  Đinh Thị Thảo  
  1994-2000  Nguyễn Thị Nhụ  
  2000-2007  Hồ Thị Tuyết  
  2007 - nay    Ngô Thị Hoà  
 
HỘI NÔNG DÂN TẬP THỂ XÃ QUA CÁC THỜI KỲ
 
          Từ năm 1969 đến năm 1983, Hội Nông dân tập thể do đồng chí Chủ nhiệm HTX kiêm nhiệm. Đến 1983 có ban chấp hành, nhưng vẫn chưa được tự chủ, đến năm 1995, Hội có con dấu, tài khoản đi vào hoạt động độc lập ban chấp hành bầu ra Chủ tịch và Phó Chủ tịch. Chủ tịch Hội qua các giai đoạn:
 
TT Năm Họ và tên Ghi chú
  1979-1980 Văn Đức Ngãi  
  1980-1981 Ngô Văn Tuyền  
  1982-1985 Ngô Tri Bách  
  1985-1987 Đặng Văn Dấp  
  1988-1992 Bùi Văn Dởn          
  1992-1995 Nguyễn Đức Hiên  
  1995-4/2006 Ngô Trí Tình  
  5/2006 - nay Trần Đức Tình  
 
 
HTX NÔNG NGHIỆP XÃ QUA CÁC THỜI KỲ TỪ NĂM 1969 ĐẾN NAY
Năm 1969 hợp nhất toàn xã thành một HTX gọi là HTX Mai Hùng.
1969 - 1972. Ngô Trí Hai Chủ nhiệm, Nguyễn Văn Tục, Phó Chủ nhiệm.
Năm1972 chia thành 3 HTX:  Kim Ngọc, Toàn Thắng và Tiền Phong.
Năm 1974, hợp nhất thành toàn xã mang tên HTX Thống Nhất.
 
Năm Chủ nhiệm Phó Chủ nhiệm
1974 -1975 Trần Bá Thái Nguyễn Văn Tục
1975-1976  Lê Công Tuyên Nguyễn Văn Tục
1976-1977 Ngô Văn Tuyền  Nguyễn Văn Tục
1977-1979 Ngô  Văn Tuyền  Ngô Trí Lý
1979- 1980 Văn Đức Ngãi Ngô Trí Lý
1980-1981 Ngô Văn Tuyền  Văn Đức Ưng
1981-1982 Văn Đức Ưng Nguyễn Văn Nuôi
1982-1987 Văn Đức Ưng Nguyễn Văn Nuôi
1987-1989 Đinh Văn Năm Bùi Văn Xuyên
 
Năm 1989 tách ra 3 HTX như hiện nay (2011).
 
Hợp tác xã Tiền Phong
 
Năm Chủ nhiệm Phó Chủ nhiệm
1972 Bùi Văn Viễn Nguyễn Văn Tục
1973 Quách Hữu Kiệp Trần Đức Kiện
1989-1992   Nguyễn Văn Thắng Lê Đức Mão
1992-1994 Lê Công Dưu Văn Đức Nhân
1994-1996 Lê Đức Mão Văn Đức Hường
1996-2000 Lê Đức Mão Văn Đức Hường
2000-2004 Lê Hữu Trung Quách Hữu Thuận
2004-2007 Quách Hữu Thuận Văn Đức Thiện
2007-2010 Quách Hữu Thuận Văn Đức Thiện
2010- 2015 Văn Đức Thiện Quách Hữu Thắng
 
Hợp tác xã Toàn Thắng
 
Năm Chủ nhiệm Phó Chủ nhiệm
1972  Đinh Văn Chi Vũ Xuân Thao
1973 Đinh Văn Chi Đậu Đức Viên
1989-1992 Trần Văn Hai Đậu Đức Mởn
1992-1994  Đậu Đức Mởn Hồ Xuân Lai
1994-1996  Đinh Văn Năm Đậu Danh Mai
1996-2000 Đinh Văn Năm Đậu Viết Hà
2000-2004 Đậu Viết Hiên Văn Đức Thuân
2004-2007 Văn Đức Thuân Đậu Viết Hà
2007-2010 Văn Đức Thuân Đậu Viết Hà
2010- 2015 Văn Đức Thuân Đinh Tiên Hoàng
 
 
Hợp tác xã Kim Ngọc
 
Năm Chủ nhiệm Phó Chủ nhiệm
1972 Bùi Văn Khính Ngô Trí Hai
1973 Ngô Trí Hai Ngô Trí Quắc
1989- 1992   Bùi Văn Khính Ngô Trí Lý
1992-1994   Trần Đức Thắng Ngô Trí Lý
1994-1996 Bùi Văn Xuyên Trần Đức Bang
1996-2000 Ngô Trí Lý Ngô Trí Tài (Q CN 1997)
2000-2004 Ngô Trí Tài Ngô Trí Do
2004-2007 Ngô Trí Do Ngô Văn Dờn
2007-2010 Ngô Trí Do Ngô Văn Dờn
2010- 2015 Ngô Trí Do Trần Bá Thiệm
 
 
CHỦ NHIỆM HTX TÍN DỤNG VÀ HTX MUA BÁN
Hợp tác xã tín dụng
                                Xã Quỳnh Hợp
          1959-1969, ông Văn Đức Khuông
        Xã Quỳnh Kim
          1959-1960, ông Nguyễn Ngọc Chung
          1964-1969, ông Ngô Trí Thảnh
          Hợp tác xã tín dụng xã Mai Hùng
          1969-1972, ông Văn Đức Khuông     
          1972-1984, ông Lê Công Dơu           
          1985-1987, ông Đinh Văn Năm
          1987-1984, ông Đậu Viết Chính
                             
                                                Hợp tác xã mua bán
          Xã Quỳnh Hợp
                                                1955-1957, ông Văn Đức Khuông
                                                1958-1960, ông Nguyễn Xuân Môn
                                                1961-1962, ông Nguyễn Xuân Kỷ                           
                                                1962-1968, ông Nguyễn Xuân Điền
                                                Xã Quỳnh Kim
                                                1958-1962, ông Hồ Sĩ Thiếp
                                                1963-1968, ông Bùi Văn Mởn
                                                Hợp tác xã mua bán Mai Hùng
          1969-1976, ông Nguyễn Xuân Điền            
          1977-1980, ông Nguyễn Xuân Mãn             
          1981-1988, ông Đậu Viết Chính        
          1989-1990, ông Nguyễn Xuân Mãn   
          1991-1992, ông Lê Đăng Thì
 
HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG MẦM NON QUA CÁC THỜI KỲ
 
          1975-1981, cô Nguyễn Thị Tuấn                 
          1982-1990, cô Hồ Thị Chơng
          1991-1993, cô Hoàng Thị Cường                 
          1993-2003, cô Nguyễn Thị Doan
          2003- nay, cô Đậu Thị Quế
         
          HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TIỂU HỌC QUA CÁC THỜI KỲ
 
          1969, thầy Lê Hữu Nhàn                              
          1970- 1971, thầy Nguyễn Văn Thiện
          1971-1972, thầy Lê Thạc Trang                             
          1972-1975, thầy Bùi Văn Phơng
          1976-1981, với cấp II, thầy Phạm Văn Tuấn, thầy Đặng Ngọc Hùng, thầy Nguyễn Văn Thiện
          Năm 1982, cấp I nhập với cấp II, thầy Đặng Ngọc Hùng Hiệu phó cấp
          Năm 1992, tách cấp I, cấp II.
          1992-2003, thầy Văn Huy Tiềm                     
          2003-2006, cô Vũ Thị Cử
          2006-2009, thầy Ngô Trí Xuyên          
           2009 - nay, cô Lê Thị Loan
 
          HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ  QUA CÁC THỜI KỲ
 
          1971-1974, thầy Nguyễn Ngọc Túc                
          1974-1976, thầy Văn Đức Ân
          Năm 1982 nhập cấp I vào cấp II.
          Năm 1994, tách câp I, thầy Lê Văn Bình
          Năm 2000-2005, cô Trần Thị Thanh Hương
          Năm 2006- 2010,  thầy Lê Đăng Thành
          Năm 2010, thầy Nguyễn Văn Bảy
 
TRẠM TRƯỞNG Y TẾ XÃ QUA CÁC THỜI KỲ
 
          1970-2006, Y sĩ Lê Bá Duyên                      
          2006-2007, Y sĩ Văn Thị Cần
          2008 - nay, Bác sĩ Nguyễn Đình Thính.
 
          HUYỆN UỶ VIÊN, HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN HUYỆN TRỞ LÊN
          Huyện uỷ viên                                              
          Lª Đức Hưu (1961- 1964)                           
          Lê Đức Tròn (1979- 1981)                           
          Văn Đức Nhàn (1972 -1973)                      
          Nguyễn Đình Thuật (2005- nay)                  
          Hội đồng nhân dân huyện
          Lê Thị Phòng
          Nguyễn An Bền    
          Nguyễn An Tuyển (1961-1963)
          Đinh Văn Năm
          Văn Đức Ưng
          Hồ Thị Tuyết ( 2011)
          Nguyễn Đình Thuật (2011-2016)       
          Ngô Thị Tình
 
          THẠC SĨ, TIẾN SĨ
          Tiến sỹ: Nguyễn Văn Lưu (xóm 1), tiến sỹ Sinh Học, giảng viên trường Đại học Nông Lâm Bắc Giang.
          Lê Đức Hoàng (xóm 13), Tiến sỹ Sử học, giảng viên Trường Đại học Vinh
          Đường Thị Quỳnh Liên, xóm 15, giảng viên Đại học Vinh.
          Thạc sĩ
          Trần Anh Dũng, xóm 8  
          Ngô Văn Khả, xóm 8               
          Ngô Trí Hinh, xóm 8      
          Ngô Thị Vân, xóm 8      
          Nguyễn An Thuyên, xóm 1     
          Nguyễn Đức Sĩ, xóm1    
          Lê Công Huỳnh, xóm 12
          Ngô Thị Oanh xóm 2.5
          Ngô Trí Côi, xóm 19      
          Văn Đức Giao, xóm 13         
          Văn Thị Hạnh, xóm 13
 
DANH SÁCH SỸ QUAN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
(tính từ cấp tá trở lên)
 
TT Họ và tên Năm sinh Cấp bậc Chức vụ Nơi công tác
1 Nguyễn An Thuyên  1949 Thiếu tướng GĐ HVNT quân đội  Về hưu Hà Nội
2 Ngô Văn Khả 1955 Đại tá Trường tăng thiết giáp Về hưu Mai hùng
3 Văn Đức Quảng 1929 Đại tá   Về hưu TPHCM
4 Ngô Trí Bảo 1959 Đại tá Thanh tra Bộ quốc phòng Hà nội
5 Nguyễn Đình Thiêm 1947 Đại tá Giáo viên Học viện Hậu cần Về hưu Hà Nội
6 Đậu Đức Phượng 1964 Đại tá   Quân khu 9
7 Nguyễn Đình Thươn 1947 Đại tá    
8 Ngô Văn Chấn 1950 Thượng tá   Về hưu Hà Nội
9 Nguyễn Đức Sỹ 1958 Thượng tá   Tỉnh đội NA
10 Văn Đức Dương 1962 Trung tá Quân khu VII Đồng Nai
11 Nguyễn Đình Ngọ 1966 Trung tá Cục cảnh vệ Hà Nội
12 Nguyễn Đình Nhích 1936 Trung tá   về hưu
13 Ngô Văn Bàng 1944 Trung tá   về hưu
14 Nguyến Đình Thao  1962 Trung tá   Hà Nội
15 Văn Đức Kháng 1946  Trung tá   về hưu Phú Thọ
16 Ngô Trí Nam  1955 Trung tá   về hưu
17 Ngô Trí Biên  1963 Trung tá   E80 quân khu 4
18 Nguyễn Đình Phái   Trung tá   về hưu H. Mai
19 Nguyễn An Ước 1950 Thiếu tá Chủ nhiệm CCB về hưu
20 Đậu Kim Khước 1954 Thiếu tá Nhà máy Z4 Về hưu P. Thọ
21 Lê Văn Thái   1963 Thiếu tá TBan chính sách Huyện đội Quỳnh Lưu
22 Phạm Thị Thu 1950 Thiếu tá Trưởng phòng quân lực Hà nội
23 Đậu Viết Thuật 1963
 
Thiếu tá Cơ yếu Lữ đoàn 215 Tăng thiết giáp
24 Lê Công Duyễn 1938 Thiếu tá   Về hưu
25 Nguyễn Đình Được  1955 Thiếu tá Trưởng phòng quân lực Về hưu
26 Bùi Văn My 1951 Thiếu tá   Về hưu
27 Lê Công Hiền  1936 Thiếu tá   về hưu
28 Nguyễn Đình Hường 1958 Thiếu tá   Bình Định
29 Bùi Văn Vịnh 1943 Thiếu tá   về hưu
30 Nguyễn Đình Phong 1979 Thiếu tá Trưởng ban quân nhu Bộ đội Biên phòng Nghệ An
31 Lê Bá Giáp 1974 Thiếu tá Cụm phó Đảo Đảo Phú Quốc
32 Lê Trọng Hiền 1967 Thiếu tá Tài vụ tàu hải quân Vũng Tàu
33 Đậu Đức Long 1974 Thiếu tá P. Chủ nhiệm HC Vùng 2 Hải Quân Vũng Tàu
 
         
DANH SÁCH SỸ QUAN CẤP TÁ CÔNG AN NHÂN DÂN
 
TT Họ và tên Năm sinh Cấp bậc Chức vụ Nơi công tác
1 Văn Đức Quảng 1929 Đại tá Công an Về hưu TP. HCM
2 Nguyễn Đình Sỹ 1941 Đại tá Cục phó CCS PC tội phạm Môi trường Hà nội
3 Nguyễn Đình Linh 1957 Đại tá Công An TP. HCM
4 Quách Hữu Hiến 1959 Đại tá Công An Tỉnh Điện Biên
5 Ngô Trí Tố 1926 Thượng tá Tr. phòng cơ yếu Về hưu
6 Nguyễn Đình Công 1958 Thượng tá Đội trưởng điều tra Từ Liêm - Hà Nội
7 Ngô Trí Tưởng 1957 Thượng tá Đội trưởng điều tra Nghệ An
8 Nguyễn Đình Sử 1955 Thượng tá   Về hưu TP.HCM
9 Ngô Văn Phú 1960 Thượng tá   Về hưu TP.HCM
10 Văn Đức Trung 1959 Thượng tá Công An Bà rịa Vũng tàu
11 Bùi Văn Hào 1960 Thượng tá Nhà báo Công An Hà Nội
12 Bùi Văn Lan 1955 Thượng tá Công An TP. HCM
13 Bùi Văn Huy 1957 Thượng tá Công An Nghệ An
14 Ngô Thị Tâm 1958 Thượng tá Công An Hà Nội
15 Ngô Trí Chất 1948 Trung tá Công An Nghệ An
16 Văn Đức Lương 1958 Trung tá ĐP điều tra Quỳnh Lưu
17 Đậu Đức Tới 1959 Trung tá Quản lý trại giam Đồng Nai
18 Trần Đức Hưng 1961 Trung tá Đội phó cảnh sát Quỳnh Lưu
19 Nguyễn Đình Thao 1964 Trung tá Công An Hà Nội
20 Ngô Trí Khoát 1961 Trung tá Công An Nghệ An
21 Nguyễn An Mạnh 1960 Thiếu tá Công An Nghệ An
22 Trần Đức Liêm 1946 Thiếu tá Trưởng đồn Đắc Lắc
23 Nguyễn Trọng Hải 1960 Trung tá Công An TP Hồ Chí Minh
24 Nguyễn Đình Ngọ 1966 Thiếu tá Bộ Công An Hà Nội
25 Hoàng Phi Quyền 1963 Thiếu tá Phó phòng CSGT Nghệ An
26 Nguyễn Thị Nho   Thiếu tá    
27 Bùi Đức Dương   Thiếu tá    
28 Ngô Trí Quyền 1957 Thiếu tá Công An Quỳnh Lưu
29 Văn Đức Phượng 1964 Thiếu tá Công An Quỳnh Lưu
30 Văn Đức Kim 1956 Thiếu tá Công An  Về hưu Nha Trang
31 Văn Đức Nhàn 1931 Đại úy Huyện trưởng CA Quỳnh Lưu
32 Ngô Trí Huệ 1935 Đại úy Phó Huyện trưởng CA Quỳnh Lưu
 

TÀI LIỆU THAM KHẢO
 
1. Các văn bản đại hội qua các nhiệm kỳ (lưu trữ tại Văn phòng Đảng ủy)
2. Biên bản họp Ban Thường vụ, Ban chấp hành, họp đảng bộ qua các khóa
3. Các nghị quyết của Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân qua các khóa
          4. Lịch sử Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu (1930-2000). Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia- Hà Nội 2000.
          5. Địa chí văn hoá Quỳnh Lưu. Nhà xuất bản văn hóa  - Thông tin 2008.
          6. Quỳnh Lưu huyện địa đầu xứ Nghệ. Nhà xuất bản Nghệ An 1990.
          7. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nghệ An. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia -Hà Nội 1998.
          8. Nghệ An - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975). Xuất bản năm 1995.
          9. Quân khu IV - Lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-2005). Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội- 2005.
          10. Nghệ An - Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945-1954. Xuất bản năm 1997.        
          11. Quỳnh Lưu phong thổ ký, bản dịch, hiện lưu giữ tại Thư viện Nghệ An.
          12. Đại Việt sử ký toàn thư tập 1, tập 2. NXB Văn hoá - Thông tin - Hà Nội. 2004.
          13. Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX. NXB Khoa học xã hội. Hà Nội,1981.
          14. Biên bản tổng hợp sử liệu Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu (1930-1945), họp từ ngày 16 đến ngày 20-12-1968. Tài liệu lưu trữ tại Huyện uỷ Quỳnh Lưu.
          15. Bác Hồ với quê hương - Nhà xuất bản Nghệ An. 1997.
          16. Đường trong dân - Nhà xuất bản Quân đội nhân dân - Hà Nội - 1990.
          17. Bà mẹ Việt Nam Anh hùng tỉnh Nghệ An - NXB Nghệ An - 1999.
          18. Hồ Chí Minh toàn tập. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội. 2000.
          19. Nghệ Tĩnh hôm qua và hôm nay. NXB Sự thật - Hà Nội, 1986.
          20. Lịch sử các xã, thị trấn trong huyện đã xuất bản
          21. Nhật ký Đỗ Lương Bằng. Tài liệu lưu trữ tại Bảo tàng Quân khu 4.
 
MỤC LỤC
                                                                                                                        Trang
          Lời nói đầu                                                                                                 3
          Chương I: Khái quát về miền quê Mai Hùng                                           4
          I. Vị trí địa lý                                                                                                4 II. Giá trị văn hóa-phong tục tập quán                                                         22
          Chương II: Truyền thống đấu tranh của nhân dân Mai Hùng
trước và sau khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời                                       27
          I. Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời                                              27          II. Phong trào cách mạng của nhân dân các làng, xã Mai Hùng
 từ ngày có Đảng đến Cách mạng tháng Tám năm 1945                                        30
          Chương III: Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ, nhân dân các làng
 đóng góp vào sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp
 thắng lợi (1945-1954)
          I. Những việc làm sau khi giành chính quyền
          II. Xây dựng hậu phương, chi viện cho các chiến trường,
hoàn thành nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
          Chương IV: Đảng bộ và nhân dân xã Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ
cứu nước 1954-1975
          I. Ổn định tình hình sau chiến tranh, phát triển kinh tế- xã hội,
 thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
          II. Đảng bộ và nhân dân xã Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim
 trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần cùng cả nước
đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1964-1968)
          III. Đảng bộ và nhân dân xã Mai Hùng khôi phục kinh tế,
 chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ, góp phần
cùng cả nước giải phòng miền Nam thống nhất Tổ quốc (1969-1975)
          Chương V: Đảng bộ và nhân dân xã Mai Hùng,
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiến hành
công cuộc đổi mới đất nước (1975-2010)
          1.10 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quê hương
của Đảng bộ và nhân dân Mai Hùng 1975 - 1986.
          2. Đảng bộ và nhân dân xã Mai Hùng trong sự nghiệp đổi mới,
tiến tới xây dựng xã hội vì mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh" (1986-2010).                                                        
          Kết luận
          Phụ lục
Số liệu đảng và các đoàn thể chính trị xã hội được tính từ năm 2010
Thiếu tướng An Thuyên (Nguyễn An Thuyên, nguyên quán xóm 1 (Ngọc Huy), trong những năm thập kỷ 60 đã di dân lên Quỳnh Thắng)
 Tướng quân Quách Hữu Nghiêm quê ở Thái Bình được nhà vua phân công đi đánh giặc Chiêm Thành ở phía Nam, sau khi giành thắng lợi trở về được nhà Vua giao trấn giữ cảng Xước, lạch Cờn, lạch Quèn, cửa Bạng (Tĩnh Gia Thanh Hoá) tiếp tục nạo vét kênh nhà Lê. Ông đóng quân ở làng Hải Đà sau đó chuyển lên xóm Quan. Tại đây, ông đã cho người đào giếng để lấy nước sinh hoạt, người dân đặt tên là giếng quan (hiện nay vẫn còn dấu tích) và kết duyên cùng với bà Hồ Thị Thành ở làng Dị Nậu (Quỳnh Dị). Tiếp đến, cháu ông và một số người ở xóm Quan, làng Dị Nậu đã lên vùng xóm Cung khai phá đất hoang, hình thành vùng cư dân tại đây. Con cháu ông ở Mai Hùng hiện nay khá đông, có nhiều người thành đạt.
 
-  Nghĩa là khi đi đánh cá nhìn hòn Mê (Thanh Hoá) khi về thì nhìn rú Sứ
-  Tên họ ý nói cái tên gọi là đá Ông, đá Mụ tuy do con người đặt ra, nhưng thực ra là do tạo hoá sinh ra lứa đôi rồi.
-4 Hai câu thơ này nguyên văn đặt cầu kỳ, ý nói cái ráng hồng ở xa ngàn dặm kia, tức là cái giải lưng bằng lụa đỏ và cái giọt sương rơi ban đêm tức là tấm bình phong che chở cho hai ông, bà. Cùng một ý nói trời biển là nhà cửa của ông, bà.
 
Tư liệu họ Văn cung cấp.
Họ Nguyễn xác định về làng Qúi Vinh – Di Nậu - Ngọc Huy thời Lê Cảnh Trị (1662 - 1671), lúc bấy giờ các cụ khoảng 17 tuổi.
() “Sự tích làng Kim Lung” được lưu giữ tại gia đình cụ Nguyễn An Hiến
() Có thời kỳ làng chia 4 xóm: Yên Đông, Yên Lễ, Yên Thịnh, Yên Trung gọi là  chòm Trung Kiên
.  Ông Nguyễn Xuân, đến vào mùa xuân, nên đặt tên là Xuân Lai, Tên xóm Nhồi lấy tên của quê hương ông. Tài liệu do ông Nguyuễn Xuân Kỷ ( thôn 14), cung cấp. Họ Nguyễn gốc ở Thanh Hoá vào Nghệ An có 3 chi lớn ở Quỳnh Lưu tập trung ở Quỳnh Vinh - Mai Hùng.
() Hồ chí Minh: Toàn tập NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, trang 93-94
() Chữ đoàn thể ở đây là Đảng vì cuối năm 1945, Đảng tuyên bố tự giải tán để rút vào hoạt động bí mật.
() Hồ Chí Minh  toàn tập, tập . trang 76, 78.
 
Quỳnh Đôi, Quỳnh Thanh và Quỳnh Yên lúc đó cùng chung một xã Quỳnh Anh.
Vật dụng dùng để chống mưa và rét như áo mưa ngày nay
4 người dân Kim Lung bị bắt là Ngô Văn Bảo, Ngô TrÝ HÒ, Trần Đoài, Ng« TrÝ ®iÒm và một thÇy gi¸o cÊp I míi vÒ.
() Xã Quỳnh Mai lúc đó gồm Quỳnh Thắng, Tân Thắng, Quỳnh Trang, Quỳnh Vinh, thị trấn Hoàng  Mai, Quỳnh Dị, một số thôn Lộc -Trạch ở Mai Hùng hiện nay.
 
         ()  Chỉ thị phát động thi đua ái quốc của Trung ương Đảng ngày 27/3/1948
() Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd trang 8 và 315.
 
() Huyện uỷ Quỳnh Lưu (tài liệu đã dẫn).
() Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng, NXB Hà Nội 1960, T:179-180
 
() Nghệ An - Quảng Ngãi kết nghĩa
() Huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi kết nghĩa với huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An.
 
() An Ngãi là tên ghép 2 chữ cuối tỉnh Quãng Ngãi và Ngnhệ An kết nghĩa.
 
() Lịch sử Đảng bộ Huyện, Sđd trang 214.
() Nhật ký Đỗ Lương Bằng. Sđd
Đây được tính như đại hội lần thứ nhất.
Mỗi mặt trận là một trung đoàn.
() Nghị quyết Tỉnh Uỷ Nghệ Tĩnh, lưu văn phòng Huyện uỷ Quỳnh Lưu
 
() Nghị quyết Tỉnh Uỷ Nghệ Tĩnh, lưu văn phòng Huyện uỷ Quỳnh Lưu
() Tư liệu lịch sử lực lượng vũ trang lưu trữ tại Huyện đội và Huyện uỷ Quỳnh Lưu.
 
() Lao động loại A phải đạt 28 công/người/tháng. Loại B 26 công/người/tháng. Nếu không đạt sẽ bị phạt. 

XEM NHIỀU NHẤT

THỐNG KÊ

  • Đang truy cập37
  • Hôm nay9,294
  • Tháng hiện tại254,059
  • Tổng lượt truy cập15,391,717
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây